Hội thảo đầu tiên góp ý xây dựng Luật KTĐL vừa diễn ra sáng nay, 12/1/2010, tại Hà Nội. Ảnh: B.M. (eFinance Online) – Với vai trò “chứng thực” thông tin kinh tế tài chính cho xã hội, kiểm toán độc lập (KTĐL) được đánh giá là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường và cần có sự kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, tại Việt Nam, công tác quản lý hoạt động KTĐL còn nhiều hạn chế, thậm chí nhiều mảng vẫn đang được buông lỏng.
“Cung” chưa theo kịp “cầu”
Ông Đặng Thái Hùng, Phó Vụ trưởng Vụ Chế độ Kế toán & Kiểm toán, Bộ Tài chính thắng thắn nhận xét: Kể từ ngày thành lập công ty kiểm toán đầu tiên tại Việt Nam (tháng 5/1991), qua 18 năm hoạt động, KTĐL đã có nhiều bước phát triển đáng kể, góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, song vẫn còn 3 hạn chế, bất cập.
Thứ nhất, quy mô của thị trường kiểm toán còn nhỏ, số lượng kiểm toán viên (KTV) còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội. Tính đến ngày 31/3/2009, cả nước đã có hơn 6.400 cán bộ làm việc trong các công ty kiểm toán, nhưng trong đó chỉ có khoảng 1.500 người được cấp chứng chỉ KTV, bình quân mỗi công ty kiểm toán có 7 KTV. Do số lượng công ty kiểm toán tăng nhanh (từ con số 2 công ty vào năm 1991 tăng lên 165 công ty kiểm toán và dịch vụ tài chính vào năm 2009) nhưng số lượng KTV tăng không đáng kể nên dẫn đến sự dàn trải số lượng KTV giữa các công ty.
Ông Đặng Thái Hùng, Phó Vụ trưởng Vụ Chế độ kế toán & Kiểm toán, Bộ Tài chính: “Chế tài xử phạt hành vi vi phạm của KTV chưa đủ mạnh”. Ảnh: B.M. |
Thứ hai, chất lượng đội ngũ KTV và dịch vụ kiểm toán chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài KTV của các công ty kiểm toán lớn, đa số KTV còn lại ở các công ty hiện nay chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng hành nghề chuyên nghiệp. Số lượng KTV có chứng chỉ kiểm toán quốc tế còn hạn chế (khoảng 340 người). Phần lớn KTV chưa có hiểu biết nhiều về kinh nghiệm hành nghề trong môi trường quốc tế. Việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề của KTV đôi khi chưa được nhận thức đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi KTV khi hành nghề. Chế tài xử phạt hành vi vi phạm của KTV chưa đủ mạnh để phòng ngừa và răn đe nên cũng ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán. Các công ty mới thành lập thường quá nhỏ, chưa đảm bảo chất lượng dịch vụ, thiếu các cấp bậc soát xét, số lượng KTV có chứng chỉ chỉ đạt mức yêu cầu tối thiểu (3 người), trong đó, thậm chí có người còn làm kiêm nhiệm công tác quản lý. Việc kiểm soát chất lượng dịch vụ của Bộ Tài chính đã được duy trì từ năm 1999 đến 2005, từ năm 2006 chuyển giao cho Hội Kiểm toán viên hành nghề (VACPA) thực hiện nhưng vẫn chưa đi sâu vào số liệu tài chính và đánh giá, giám sát đạo đức nghề nghiệp của các kiểm toán viên.
Thứ ba, sự phối kết hợp quản lý Nhà nước với tổ chức nghề nghiệp KTV hành nghề còn chưa phát huy hiệu quả thiết thực. Được biết, Hội nghề nghiệp của KTV hành nghề đã ra đời từ năm 2005, được Bộ Tài chính chuyển giao thực hiện một số công việc trong quản lý KTV hành nghề như quản lý danh sách KTV đủ điều kiện cung cấp dịch vụ kiểm toán, đào tạo, cập nhật kiến thức hàng năm cho KTV hành nghề, cung cấp dịch vụ tư vấn chuyên môn, thực hiện kiểm soát chất lượng, tham gia xây dựng văn bản pháp luật về kê stoán, kiểm toán. Tuy nhiên, nguyên tắc kết hợp quản lý Nhà nước với tổ chức nghề nghiệp KTV chưa được quy định chính thức trong văn bản pháp luật về KTĐL. Mặt khác, bản thân Hội nghề nghiệp KTV còn nhiều khó khăn về nguồn nhân lực, công tác tổ chức hoạt động chưa thực sự chuyên nghiệp nên cơ quan Nhà nước chưa thể chuyển giao nhiều hơn các phần việc liên quan đến việc quản lý hành nghề kiểm toán cho Hội. Vì vậy, công tác quản lý hành nghề kiểm toán hiện nay vẫn mang nặng tính chất quản lý hành chính Nhà nước.
Hành lang pháp lý đã “lỗi thời”
Cũng theo ông Đặng Thái Hùng, một trong những nguyên nhân chính của hiện trạng bất cập nêu trên chính là bởi thiếu khuôn khổ pháp luật ở vị thế cao về lĩnh vực KTĐL.
Từ trước đến nay, văn bản pháp luật cao nhất về KTĐL là Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004. Nghị định này đã được sửa đổi, bổ sung tại các Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 và Nghị định 30/2009/NĐ-CP ngày 30/3/2009. Song thực tế cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi để luật có thể “theo kịp thực tiễn”.
Đơn cử, Nghị định về KTĐL chưa tương xứng với vai trò, vị trí hoạt động KTĐL trong nền kinh tế. “KTĐL là dịch vụ đặc biệt vì cung cấp sự “chứng thực” thông tin kinh tế tài chính cho xã hội. Chất lượng dịch vụ kiểm toán phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực của đội ngũ KTV và doanh nghiệp kiểm toán. Đồng thời còn phụ thuộc vào sự phối hợp của đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân liên quan. Vì vậy, rất cần quy định rõ về quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của các đối tượng này trước xã hội để đảm bảo chất lượng kiểm toán. Thế nhưng hiện nay, trên thực tế mới chỉ có Nghị định là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh các vấn đề quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán, khách hàng, đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân sử dụng kết quả kiểm toán… nên không đảm bảo được hiệu lực pháp lý đầy đủ để những tổ chức, cá nhân có liên quan thực thi quyền và trách nhiệm của mình.
Mặt khác, Nghị định về KTĐL chưa quy định đầy đủ các nội dung cần thiết để tăng cường chất lượng dịch vụ kiểm toán và đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chẳng hạn, Nghị định quy định chưa đầy đủ, chặt chẽ và rõ ràng về hành vi nghiêm cấm, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán, khách hàng, đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân sử dụng kết quả kiểm toán, vì vậy khó quy trách nhiệm khi xử lý vi phạm trên thực tế. Nghị định cũng chưa quy định cơ quan đầu mối quản lý đối với hoạt động kiểm toán độc lập từ khi cấp giấy phép cũng đến bổ sung, thay đổi hồ sơ, điều chỉnh giấy phép và xử lý các trường hợp vi phạm, thu hồi giấy phép… dẫn đến chưa đảm bảo kiểm soát chặt chẽ các tiêu chuẩn, điều kiện thành lập doanh nghiệp. Từ thực tiễn “rọi” vào văn bản luật thì thấy còn rất nhiều “lỗ hổng” trong hành lang pháp lý hiện thời, đơn cử, chưa có quy định về vốn tối thiểu đối với công ty kiểm toán TNHH (hạn chế việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chưa tạo động lực, buộc doanh nghiệp phải rất cẩn trọng khi cung cấp dịch vụ kiểm toán cho xã hội); chưa có quy định về kỹ thuật kiểm toán như quy trình kiểm toán, hồ sơ kiểm toán, báo cáo kiểm toán, kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán…; chưa có quy định đầy đủ, chặt chẽ về hoạt động KTĐL có yếu tố nước ngoài như điều kiện hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài ở Việt Nam, về liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp kiểm toán trong nước hoặc giữa các tổ chức, cá nhân hành nghề kiểm toán nước ngoài với doanh nghiệp kiểm toán ở Việt Nam, về cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ có liên quan qua biên giới, về công nhận bằng cấp, chứng chỉ KTV nước ngoài…
Ngoài ra, theo đánh giá của nhiều chuyên gia thì Nghị định về KTĐL quy định về kiểm toán bắt buộc còn quá hạn hẹp. Đối tượng bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính không bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty hợp danh, công ty cổ phần chưa niêm yết, do đó hạn chế tính công khai, minh bạch báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức này, đồng thời bó hẹp quy mô thị trường kiểm toán Việt Nam.
Sáng nay, 12/1/2010, Hội thảo đầu tiên nhằm lấy ý kiến đóng góp của đại diện các Bộ, ngành vào Dự thảo Luật KTĐL vừa được tổ chức tại Hà Nội. Sắp tới, hội thảo tương tự sẽ được tổ chức nhằm lấy ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp, các chuyên gia, và lấy ý kiến rộng rãi của công chúng trên website.
Dự kiến tháng 4/2010, Dự án Luật KTĐL sẽ được trình Chính phủ; đến tháng 10/2010 sẽ lấy ý kiến của Quốc hội, và sẽ được thông qua vào kỳ họp Quốc hội năm 2011. |
Cần sớm có Luật Kiểm toán độc lập
“Để khắc phục những hạn chế về KTĐL trong thời gian qua, đồng thời tạo điều kiện cho dịch vụ kiểm toán phát triển cả về quy mô, chất lượng, Bộ Tài chính đang tích cực xây dựng Dự án Luật KTĐL”, ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính cho biết.
Luật này sẽ quy định chặt chẽ hơn về điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán, điều kiện để cấp chứng chỉ KTV, điều kiện hành nghề kiểm toán… qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ và tính độc lập của ngành nghề kiểm toán ở Việt Nam, đảm bảo kiểm toán là công cụ quản lý, góp phần làm lành mạnh hoá, minh bạch thông tin tài chính.
“Việc ban hành khuôn khổ pháp lý cao, chặt chẽ, sẽ tạo điều kiện cho công tác giám sát chất lượng, phòng ngừa thiệt hại cho nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp, nhà đầu tư”, ông Nghĩa nói.
Ngoài ra, việc ban hành Luật KTĐL sẽ nâng cao vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước trong việc quản lý, giám sát, xử lý vi phạm trong lĩnh vực kiểm toán; đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với dịch vụ kiểm toán, đáp ứng nhu cầu hội nhập với thế giới.
(Bình Minh)-Efinance