Ktetaichinh’s Blog

December 3, 2010

Toàn văn báo cáo của Michael Porter: Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2009-1010

Filed under: Uncategorized — ktetaichinh @ 4:52 am
Tags:

Click to access Porter_Complete.pdf

December 13, 2009

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Filed under: Uncategorized — ktetaichinh @ 5:20 pm
Tags: , ,

ĐCSVN) – Ngày 12-12, Hội thảo lý luận lần thứ 5 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã khai mạc tại Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Trưởng Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam – Đồng chí Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có bài phát biểu tại Hội thảo. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Kính thưa đồng chí Lưu Vân Sơn, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trưởng Đoàn đại biểu các nhà khoa học Trung Quốc,

Thưa các đồng chí và các bạn,

Thực hiện chương trình hợp tác nghiên cứu lý luận hàng năm giữa hai Đảng nhằm góp phần thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện và ngày càng hiệu quả giữa Việt Nam và Trung Quốc, hôm nay tại thành phố Hạ Môn giàu đẹp và mến khách, chúng ta tiến hành Hội thảo lý luận lần thứ V với chủ đề: “Lý luận và thực tiễn về ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu – Kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam”. Thay mặt đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội thảo, tôi nhiệt liệt chào mừng đồng chí Lưu Vân Sơn, ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; các đồng chí lãnh đạo Đảng và các cơ quan hữu quan của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; các đồng chí lãnh đạo Đảng, chính quyền tỉnh Phúc Kiến và thành phố Hạ Môn cùng các nhà khoa học hai Đảng Trung Quốc, Việt Nam có mặt tại cuộc Hội thảo rất quan trọng và có ý nghĩa này. Xin cảm ơn sự chuẩn bị chu đáo và đón tiếp ân cần của các đồng chí dành cho chúng tôi. Chúc tất cả các đồng chí có mặt tại đây dồi dào sức khỏe và chúc Hội thảo của chúng ta thành công tốt đẹp.

Thưa các đồng chí và các bạn,

Nửa cuối năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát mạnh, với những diễn biến phức tạp. Và ngay từ giữa năm 2009, chúng ta đã thống nhất được chủ đề Hội thảo: “Lý luận và thực tiễn về ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu – Kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam”. Đây là chủ đề lớn vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, không chỉ cho trước mắt mà cho cả lâu dài. Việc đánh giá đúng bản chất của cuộc khủng hoảng; phân tích một cách toàn diện và sâu sắc các giải pháp ứng phó nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm để cùng nhau học hỏi và tham khảo sẽ là rất hữu ích cho việc hoàn thiện chiến lược và đường lối phát triển kinh tế – xã hội của mỗi Đảng, cũng như sự hợp tác chặt chẽ và ngày càng hiệu quả giữa hai Đảng, vì mục tiêu hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững trong khu vực và trên thế giới. Có thể khẳng định rằng, chủ đề của Hội thảo là rất quan trọng, thiết thực và thu hút được sự quan tâm đặc biệt của tất cả chúng ta.

1. Về tính chất và nguyên nhân cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay

Giới học giả và hoạch định chính sách ở hầu hết các nước trên thế giới đã rất lo ngại về quy mô và tính chất đặc biệt nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lần này. Nhiều người cho rằng chỉ có thể so sánh cuộc khủng hoảng lần này với cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 – cuộc khủng hoảng được nhấn mạnh như là điểm nút của sự phá huỷ và sáng tạo khi đưa đến sự ra đời của một chủ nghĩa tư bản có điều tiết, sự gia tăng vai trò kinh tế của các nhà nước tư sản. Lần này, cuộc khủng hoảng cũng bắt đầu từ khủng hoảng tài chính – tiền tệ trước hết lại cũng ở Mỹ – trung tâm phát triển nhất của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa; từ đó lan rộng sang các lĩnh vực khác và tác động với cường độ rất mạnh đến các nước. Cuộc khủng hoảng phản ánh sự bất lực của các thể chế kinh tế tân tự do, sự bất cập của mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường, nhưng quy mô và tính chất của nó có nhiều điểm khác hẳn so với các cuộc khủng hoảng trước đó.

Thứ nhất, cùng với tiến trình gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế và theo đó, là sự lệ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc giữa các nền kinh tế, tác động của cuộc khủng hoảng đã mang đặc tính phổ biến, lây lan rộng khắp và không loại trừ bất kỳ quốc gia nào.

Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của các quốc gia trung tâm âm và thấp kéo dài, trong khi các quốc gia ngoại vi, nhất là ở các nền kinh tế đang phát triển – nơi có độ mở thị trường cao, lệ thuộc mạnh vào xuất khẩu và FDI, đã trở thành những nước bị tác động nặng nề và sâu sắc hơn.

Thứ ba, ở cuộc khủng hoảng lần này, bên cạnh sự diễn ra đồng thời của khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu và khủng hoảng thể chế, còn là sự bùng nổ đồng thời và nghiêm trọng của các cuộc khủng hoảng về năng lượng, nguyên liệu, lương thực và môi trường. Nói cách khác, cuộc khủng hoảng đã không dừng lại ở các khía cạnh kinh tế mà đã và đang lan rộng ra ở các khía cạnh về xã hội và môi trường – 3 trụ cột của mục tiêu phát triển bền vững mà cả thế giới sẽ phải đối mặt trong những năm đầu của thế kỷ XXI.

Thứ tư, về mặt lý thuyết, trong và sau cuộc khủng hoảng lần này, người ta bắt đầu bàn nhiều đến sự trở lại của Keynes, vì sự bất lực của chủ nghĩa tân tự do, mà về thực chất, là đi tìm cơ sở lý luận cho việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong bối cảnh mới. Nói cách khác, cuộc khủng hoảng này là dấu mốc của cuộc khủng hoảng về lý thuyết điều tiết kinh tế.

Như vậy, rõ ràng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lần này có nhiều đặc trưng mới, khác với tất cả các cuộc khủng hoảng trước đó, kể cả cuộc đại khủng hoảng 1929-1933. Việc làm rõ những nội dung này chính là nhiệm vụ mới đặt ra cho giới lý luận của hai Đảng chúng ta trong việc cung cấp luận cứ cho xây dựng chiến lược và chính sách phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước trong giai đoạn tới. Hội thảo của chúng ta cần giành thời gian thoả đáng để làm rõ các đặc trưng mới này.

Về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng, đã có nhiều cuộc hội thảo quốc tế và ở mỗi nước, cho dù có nhiều kiến giải khác nhau, nhưng tựu chung lại, tương đối thống nhất trên các điểm sau đây:

(1) Sự gia tăng các rủi ro quá mức trên thị trường tài chính, nhất là ở chính sách nới lỏng tín dụng dưới chuẩn khá lâu trên thị trường nhà đất cùng với sự bưng bít thông tin, thái độ vô trách nhiệm của các tập đoàn tài chính ở Mỹ.

(2) Sự khiếm khuyết, yếu kém của hệ thống ngân hàng ở Mỹ và các nền kinh tế chủ chốt khiến cho chúng đã không còn tương thích, thiếu thiết chế và mất khả năng kiểm soát đối với hiệu ứng đổ vỡ ở các khâu yếu trong hệ thống tài chính toàn cầu.

(3) Mâu thuẫn gay gắt giữa quá trình toàn cầu hóa nền sản xuất xã hội với quyền năng to lớn, lợi ích vị kỷ, thái độ vô cảm của các tập đoàn tư bản, nhất là các tập đoàn đầu sỏ tài chính mới. Vì mục tiêu lợi nhuận tối đa, các thế lực này đã bằng mọi giá thúc đẩy tự do hóa tài chính, khuyếch đại tư bản giả và kinh tế ảo, lũng đoạn chính sách kinh tế – xã hội của các quốc gia và hệ lụy là, họ đã mất khả năng kiểm soát đối với các huyệt điểm chết người do chính họ tạo ra; hay như cách khái quát của C.Mác: chủ nghĩa tư bản đã không thể điều khiển được các âm binh do chính chúng triệu lên. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay.

Như vậy, điều hết sức thú vị là, từ cuộc khủng hoảng lần này, chúng ta tự hào và có cơ hội để nhìn lại sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác, bởi lẽ nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, về cơ bản, vẫn không nằm ngoài nguyên nhân mà C.Mác đã từng phát hiện: đó là mâu thuẫn giữa sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trên qui mô toàn cầu với quan hệ sản xuất và các quyền lực tư bản đã tỏ ra thiếu hiệu quả và mất khả năng kiểm soát đối với các hình thức tổ chức kinh doanh do chính các quyền lực đó tạo ra; rằng sự mở rộng quá mức của tự do hoá và các vấn đề toàn cầu đang mâu thuẫn sâu sắc với các thể chế quản trị mang tính quốc gia; rằng sự buông lỏng vai trò và thiếu khả năng kiểm soát của các nhà nước đang làm cho tính vô chính phủ của thị trường lấn át, thậm chí có thể đe doạ đến sự tồn vong của cả hệ thống kinh tế – xã hội. Một số nhà kinh tế nổi tiếng và có cả chính khách phương Tây cho rằng: Việc áp dụng giáo điều, cứng nhắc mô hình kinh tế của chủ nghĩa tự do mới là sai lầm tệ hại và đã đến lúc phải từ bỏ nó. Giáo sư Joseph Stiglitz đã viết: Mỹ đã xuất khẩu triết lý kinh tế thị trường tự do ở mức mà ngay cả vị tu sĩ cao cấp nhất của trường phái đó là Alan Greenspan giờ cũng phải thừa nhận là Mỹ đã sai lầm nghiêm trọng trong việc chủ tâm xuất khẩu một thứ văn hoá doanh nghiệp vô trách nhiệm đối với xã hội; và cuối cùng Mỹ đã xuất khẩu cả sự suy thoái đi bốn phương. Tổng thống Pháp Niclas Sarkozy tuyên bố: Phải chỉnh đốn lại chủ nghĩa tư bản theo một mô hình khác, bởi hệ thống thị trường tự điều tiết qua rồi, v.v… Dường như các thất bại của thị trường không thể được sửa chữa bằng các năng lực quản trị nhiều bất cập của nhà nước và ngược lại, các thất bại của nhà nước lại không dễ khắc phục khi thị trường đã mang tính chỉnh thể toàn cầu, nhiều tương tác và khó dự đoán. Đây chính là biện chứng của sự phát triển mới mà phương pháp luận của Mác vẫn giữ nguyên giá trị, giúp chúng ta nhận diện một cách tổng thể mối tương tác giữa chu kỳ phát triển với các vấn đề cơ cấu, thể chế diễn ra đồng thời. Chính vào lúc cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra hiện nay, những tư tưởng khoa học của C.Mác lại càng toả sáng với “cường độ” rất mạnh; và ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa phát triển – trung tâm của cuộc khủng hoảng này, nhiều học giả tư sản lại đang “đổ xô” tìm mua và nghiên cứu lại bộ Tư bản của Mác. Việc trở lại và nắm cho thật vững, sâu sắc, đúng đắn những tư tưởng khoa học và nhất là những giá trị về mặt phương pháp luận của Mác lại càng cần thiết hơn bao giờ hết đối với các nhà lý luận mác-xít chân chính.

2. Về phạm vi, mức độ và chiều hướng tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

Ngay sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, hầu hết các dự báo trên thế giới đã khá thống nhất khi cho rằng mức độ suy thoái của nền kinh tế toàn cầu là nghiêm trọng, sâu sắc và kéo dài. Nhiều dự báo thậm chí đã tỏ ra bi quan khi nhận định phải mất vài ba năm, nền kinh tế thế giới mới có thể ra khỏi suy thoái. Hiện nay, sau gần một năm nhìn lại, chúng ta đã có đủ điều kiện để suy xét một cách kỹ lưỡng hơn diễn biến và tác động của cuộc khủng hoảng này.

Cho đến quý II/2009, nhiều nền kinh tế đã thoát đáy khủng hoảng và đặc biệt từ cuối quý III/2009, một số nền kinh tế chủ chốt đã có tốc độ tăng trưởng dương khá cao, trong đó đặc biệt đáng chú ý là của nền kinh tế Trung Quốc và Hoa Kỳ. Các nhận định đã khá lạc quan khi cho rằng nền kinh tế thế giới sẽ phục hồi tích cực trong năm 2010 và tốt hơn trong những năm tiếp theo. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn cần phải hết sức quan tâm đến các cảnh báo về tốc độ phục hồi còn chưa vững chắc của nền kinh tế toàn cầu – nhất là về các tiềm ẩn đang đe dọa nền kinh tế của nhiều quốc gia, như nguy cơ lạm phát, thâm hụt ngân sách, khủng hoảng nợ, các xung đột về xã hội và môi trường đang ngày càng bộc lộ sâu sắc ở nhiều nước. Điều đó cho thấy dường như sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu mới chỉ dừng lại ở sự ổn định tạm thời của khu vực tài chính và dựa vào sự tăng mạnh chi tiêu công của các chính phủ và sự khôi phục nhu cầu bên trong của các quốc gia. Hiện tại, nhìn tổng quát, nền kinh tế toàn cầu vẫn đang phải đối mặt với hàng loạt bất ổn lớn: sự phát triển yếu của các khu vực sản xuất; tình trạng cầu xuất, nhập khẩu thế giới còn rất thấp và mỏng manh; dòng FDI tiếp tục giảm xuống dưới 500 tỷ USD trong năm nay so với 1500 tỷ USD vào năm 2007; đồng USD tiếp tục yếu và giá vàng biến động bất thường; nghịch lý của vấn đề giá năng lượng và nguyên liệu tăng trong khi nhiều nền kinh tế của nhiều nước vẫn còn suy thoái… Đây chính là những bằng chứng xác đáng để khẳng định mức độ tác động phức tạp và có thể còn tiếp tục lây lan sâu rộng hơn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lần này. Kênh tác động rõ nhất là dòng chu chuyển thương mại thế giới với sự giảm sút to lớn của thị trường xuất khẩu và hệ lụy kéo theo là sự thu hẹp sản xuất và thất nghiệp gia tăng mạnh nhất ở các nền kinh tế tăng trưởng dựa vào xuất khẩu. Cũng tương tự như vậy, khi các thị trường chủ chốt, nơi tập trung các nguồn lực đầu tư và công nghệ, chưa ra khỏi suy thoái, dòng đầu tư giảm đồng nghĩa với tình hình bi đát cho khu vực sản xuất ở các quốc gia mà ở đó, FDI là một bộ phận quan trọng của tổng đầu tư xã hội. Và điều đáng lưu ý hơn lại là ở chỗ đằng sau các tình trạng giảm sút về tăng trưởng, đầu tư, thương mại, mất việc làm là sự bất ổn vĩ mô, là nguy cơ tái nghèo, sự gia tăng các xung đột xã hội và đặc biệt là sự mất niềm tin to lớn của cả các nhà đầu tư kinh doanh cũng như của mọi người dân trong xã hội. Đặc biệt, cần nhấn mạnh đến tác động của cuộc khủng hoảng đối với các vấn đề phát triển trung hạn và dài hạn, trong đó đáng chú ý là vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế khi từ cuộc khủng hoảng này, mô hình tăng trưởng của nhiều nền kinh tế quốc gia đã buộc phải đứng trước yêu cầu đổi mới.

Với một nền kinh tế đã hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, thực sự tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu và chuỗi giá trị cung ứng như hai nước chúng ta, chắc chắn sẽ không thể huy động và phân bổ các nguồn lực, lựa chọn các ưu tiên và đột phá phát triển theo kiểu cũ và cách tiếp cận chính sách như cũ. Vì vậy, không thể chỉ dựa vào các tín hiệu khả quan của sự phục hồi kinh tế toàn cầu để xem nhẹ tác động của cuộc khủng hoảng và ngược lại, cũng không thể quá nhấn mạnh đến tính chưa vững chắc của sự phục hồi để quá bi quan về diễn biến của nền kinh tế toàn cầu. Chúng ta cần tỉnh táo đánh giá đúng mức tính chất và quy mô tác động của cuộc khủng hoảng, cần phải thảo luận sâu sắc hơn vì sao khu vực nền kinh tế thực vẫn yếu và liệu có hay không sự tác động trễ đối với các nền kinh tế đang phát triển đi sau, khi cả hai nước chúng ta đang phải đối mặt với nhiều vấn đề mang tính cơ cấu.

Từ cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu lần này, chúng ta phải xem xét lại một cách nghiêm túc, trên tinh thần phê phán khoa học, cả các mô hình thực tiễn và các lý thuyết kinh tế thị trường đã từng được hay đang được sử dụng. Trong quá trình loài người còn phải tiếp tục sử dụng lâu dài kinh tế thị trường, thì không một ai có thể quả quyết rằng sẽ loại trừ được hoàn toàn các cuộc khủng hoảng. Nhưng rõ ràng là các tổ chức quốc tế, các tổ chức khu vực, chính phủ và giới kinh doanh ở tất cả các nước đều phải có trách nhiệm quản lý, hoàn thiện kinh tế thị trường theo những phương pháp mới ngày càng khoa học và dân chủ hơn, hướng kinh tế thị trường vào những tiến bộ xã hội ngày càng lành mạnh và nhân văn hơn, làm cho những mong muốn và nhu cầu cơ bản, đa dạng về cả vật chất và tinh thần của các cá nhân, các nhóm xã hội trong toàn bộ các hệ thống xã hội ngày càng phải được đáp ứng tốt hơn.

3. Ứng phó khủng hoảng và bài học đối với Việt Nam

Thuộc nhóm các nền kinh tế đang phát triển đi sau, với quy mô nền kinh tế còn nhỏ, xuất phát điểm thấp nhưng đã hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế giới trên tất cả các cấp độ, nền kinh tế Việt Nam chịu sự tác động sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Về căn bản, chúng tôi nhận thức đúng tính chất của cuộc khủng hoảng, kịp thời phát hiện các kênh tác động chủ yếu đến nền kinh tế. Do đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam có độ mở thị trường cao (xuất, nhập khẩu trên 150% GDP) và khu vực FDI tuy chỉ chiếm trên 27% tổng đầu tư xã hội nhưng luôn đạt từ 55 – 70% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nên sau khi khủng hoảng nổ ra, thị trường xuất khẩu và đầu tư thế giới giảm sút đột ngột, nền kinh tế Việt Nam đã lập tức rơi vào suy giảm, từ mức tăng trưởng trên 7% năm 2008 xuống còn 3,1% vào quý I/2009. Từ cuối năm 2007, kinh tế và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn do lạm phát tăng cao và suy giảm kinh tế; trong năm 2008 và 2009, thiên tai, dịch bệnh lại liên tiếp xảy ra với cường độ và mức độ lớn hơn những năm trước. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, đẩy mạnh “diễn biến hoà bình”, kích động bạo loạn, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do vậy, khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra và gây tác động, tình hình đã trở nên khó khăn hơn cho Việt Nam.

Xuất phát từ các đặc điểm này và trên cơ sở nhận định đúng diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới và khu vực, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ngay lập tức chuyển đổi mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm từ ưu tiên tập trung chống lạm phát sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế, đồng thời coi trọng bảo đảm an sinh xã hội và quan tâm chăm lo cuộc sống của người dân, nhất là cho người nghèo, các đối tượng chính sách và những vùng khó khăn. Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về tình hình kinh tế – xã hội quý I/2009 và các nhiệm vụ, giải pháp đến cuối năm 2009 đã xác định rõ: “Tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động phòng ngừa lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị xã hội, trật tự an toàn xã hội, trong đó mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”. Đây chính là tầm nhìn sáng suốt, sự lãnh đạo kịp thời, sự đề ra những định hướng chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nước Việt Nam về một vấn đề cấp bách và ở vào một thời điểm hết sức khó khăn. Với 8 nhóm giải pháp khá toàn diện, đồng bộ và hợp lý trên nguyên tắc mở rộng chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ – tín dụng nới lỏng, tăng cường vai trò giám sát của Nhà nước, củng cố niềm tin và phát huy đồng thuận xã hội, thực hiện nhất quán đường lối độc lập, tự chủ và tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ tối đa hợp tác quốc tế, thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội trong gần hai năm qua của Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn trong chính sách ứng phó của Đảng và Nhà nước Việt Nam với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Việt Nam cùng với Trung Quốc trở thành một trong số ít những nền kinh tế trên thế giới đạt được tốc độ tăng trưởng khá ngay cả khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vẫn chưa thoát đáy. Và điều đặc biệt hơn, nền kinh tế của chúng tôi đã nhanh chóng phục hồi tích cực với các mức tăng trưởng cao liên tục trong những tháng cuối năm 2009. Nói cách khác, Việt Nam đã thực hiện có kết quả mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững và chắc chắn sẽ đạt mức tăng trưởng khoảng trên 5% của cả năm 2009 như Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết luận từ đầu năm. Việt Nam cũng đã giữ được ổn định kinh tế vĩ mô với bội chi ngân sách ở mức 6,9% và với chỉ số giá cả tiêu dùng tăng khoảng 7%, lạm phát vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ. Các mục tiêu về bảo đảm an sinh xã hội, cải cách hành chính tiếp tục có những chuyển biến tích cực, quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội được giữ vững; hợp tác quốc tế tiếp tục được củng cố và nâng lên một tầm cao mới. Có thể nói, Việt Nam đã ra khỏi suy giảm kinh tế trong khi vẫn bảo đảm ổn định chính trị – xã hội là nét đặc trưng quan trọng nhất trong hệ chính sách ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay.

Tại Hội thảo lần này, chúng ta cần đánh giá thật đúng những bài học kinh nghiệm mang tính phổ biến trong ứng phó chính sách chống khủng hoảng trên thế giới và những bài học thành công riêng có của mỗi nước. Bởi lẽ đây sẽ là những gợi mở quan trọng để mỗi nước tiếp tục duy trì chính sách phù hợp và có hiệu quả cho các giai đoạn phát triển tiếp theo. Chúng tôi nhận thấy rằng trong khi thực hiện các gói kích cầu, tuy vẫn là mở rộng chính sách tài khoá và nới lỏng tín dụng, nhưng cách làm ở mỗi nước là không giống nhau. Do diều kiện nguồn lực hạn chế, Việt Nam đã lựa chọn các lĩnh vực đầu tư công hợp lý vào xây dựng kết cấu hạ tầng như: giao thông, nhà ở; chú trọng phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn còn nhiều dư địa để mở rộng nhu cầu trong nước. Đặc biệt, để tạo lập niềm tin và giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp và người dân, chúng tôi đã áp dụng chính sách hỗ trợ lãi suất 4% trong năm 2009 với một lượng vốn tín dụng cần thiết. Và còn nhiều biện pháp khác như điều hành tỷ giá linh hoạt, nâng cao khả năng thanh khoản và lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, hỗ trợ thu nhập cho các tầng lớp nhân dân dễ tổn thương, nhất là đối với các hộ nghèo và đồng bào các dân tộc thiểu số…

Đến giờ phút này, có thể nói rằng các giải pháp chính sách ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu ở Việt Nam đã thành công. Phân tích, đánh giá các kết quả này, chúng tôi rút ra được một số bài học sau đây:

Một là, phải nhận thức sát, đúng, kịp thời diễn biến của cuộc khủng hoảng; việc đề xuất các giải pháp phải linh hoạt và phù hợp với tình hình đã thay đổi, nghĩa là phải có sự điều chỉnh chính sách nhanh và hợp lý để đạt được mục tiêu đề ra và không phải đối mặt với các hiệu ứng phụ.

Hai là, phát huy cao độ ưu thế của chế độ XHCN, của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung được nguồn lực và sự đồng thuận xã hội để khắc phục khủng hoảng. Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời; Chính phủ quyết liệt trong điều hành và giảm sát thực thi chính sách; khu vực đầu tư công đột phá mạnh để tạo cầu nhằm bù đắp các thiếu hụt tăng trưởng do giảm sút xuất khẩu và FDI; cả hệ thống chính trị tham gia vào việc khắc phục suy giảm, từ công tác tuyên truyền chính sách đến tổ chức triển khai, giám sát thực hiện và đồng hành chia sẻ khó khăn của đất nước. Rõ ràng chế độ XHCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đã tỏ rõ sức sống to lớn khi đã ứng phó thành công với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Trong khi thế giới đang trở lại bàn thảo nhiều đến vấn đề gia tăng vai trò điều hành và giám sát của nhà nước thì đối với chúng ta, đây đã và luôn là một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Đây cũng là điểm tương đồng rất đặc trưng giữa hai Đảng chúng ta. Tôi đề nghị Hội thảo chúng ta cần phân tích một cách đầy đủ và sâu sắc bài học này.

Ba là, chúng tôi đã đặc biệt chú ý đến điều kiện cụ thể của đất nước khi đưa ra các chính sách ứng phó với cuộc khủng hoảng. Hỗ trợ lãi suất 4% cho doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh là hợp lý nhưng khi nền kinh tế đã ra khỏi suy giảm, chúng tôi sẽ chấm dứt áp dụng chính sách này vào cuối năm 2009 để ngăn ngừa khả năng tái lạm phát.

Bốn là, tiếp cận chính sách ứng phó khủng hoảng phải đứng trên quan điểm phát triển bền vững, không chỉ chú trọng ổn định vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, mà còn phải luôn quan tâm đến các vấn đề xã hội và môi trường. Đây là các trụ cột chủ yếu để thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các giải pháp ứng cứu ngắn hạn với các giải pháp phát triển trung và dài hạn. Nghĩa là, trong khi chống suy giảm kinh tế phải kết hợp với các giải pháp về tái cấu trúc nền kinh tế, hướng tới một mô hình tăng trưởng mới dựa trên lợi thế so sánh động, có khả năng tham gia hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu để có điều kiện bứt phá phát triển ngay sau khi nền kinh tế thế giới đã ra khỏi khủng hoảng. Chúng tôi lại càng thấm nhuần sâu sắc hơn và kiên trì tổ chức thực hiện những quan điểm cơ bản đã được đúc kết trong gần 25 năm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Tất cả do nhân dân, vì nhân dân, vì mục tiêu chung “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; phải nhận thức đúng và giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển; gắn kết hài hoà, hợp lý các chính sách kinh tế với các chính sách xã hội…

4. Những vấn đề đặt ra và yêu cầu thúc đẩy hợp tác Việt Nam – Trung Quốc trong nghiên cứu lý luận

Cho đến nay, hầu hết các nền kinh tế thế giới đã ra khỏi suy thoái. Tốc độ tăng trưởng của nhiều nền kinh tế đã ở mức cao và theo chiều hướng đi lên, thương mại thế giới đã bắt đầu khởi sắc, đầu tư nước ngoài đã bắt đầu nhịp mới, giá cả thế giới đã tăng trở lại, nghĩa là cầu thế giới và theo đó, nền sản xuất thế giới đã bắt đầu được khôi phục. Tuy nhiên, nhiều dự báo vẫn còn rất e ngại về tính bất ổn và thiếu vững chắc của chiều hướng phục hồi hiện nay. Nền kinh tế Mỹ đã đạt tốc độ tăng trưởng 3,5% trong quý III/2009 nhưng tình hình thất nghiệp vẫn chưa dừng lại, đồng USD tiếp tục suy yếu và tình trạng phá sản của các tập đoàn, công ty vẫn chưa đi đến hồi kết. Vấn đề đặt ra là điều gì sẽ diễn ra khi các nước đã đổ ra hàng nghìn tỷ USD cho kích cầu nội địa để chặn đà suy giảm? Có một điều hết sức rõ ràng là hầu hết các đánh giá đều thống nhất rằng trong năm 2010 và những năm sắp tới, thế giới sẽ phải đối mặt với các vấn đề sau đây:

Một là, do bơm tiền mạnh vào nền kinh tế thông qua các gói kích cầu, nguy cơ lạm phát trên thế giới là không thể xem nhẹ. Cho dù năm 2009, vấn đề lạm phát vẫn nằm trong vòng kiểm soát nhưng sang năm 2010, khi các nền kinh tế vẫn cần và tiếp tục được kích cầu, chắc chắn đây sẽ là nguyên nhân cơ bản tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Nếu các nền kinh tế không đạt được mức tăng trưởng cao, rất có thể có nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng vừa đình trệ, vừa lạm phát diễn ra đồng thời. Theo chúng tôi, đây là vấn đề hết sức nan giải không thể xem thường.

Hai là, đồng thời với nguy cơ lạm phát là nguy cơ gia tăng thâm hụt ngân sách. Để huy động tài chính cho các gói kích thích kinh tế trong điều kiện nguồn lực có hạn, các chính phủ sẽ phải vay nợ dưới nhiều hình thức. Người ta cũng đang cảnh báo đến nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng nợ trên thế giới mà nước Mỹ được coi là địa chỉ đầu tiên có thể xảy ra cuộc khủng hoảng này.

Ba là, bằng mở rộng kích cầu nội địa, liệu có hay không sự trở lại của khuynh hướng bảo hộ mậu dịch và điều này sẽ ảnh hưởng thế nào đến tiến trình tự do hoá dưới tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế ? Nhiều nền kinh tế tăng trưởng hiện nay chủ yếu dựa trên tăng đầu tư công, sự tăng trưởng này phải chăng là chưa hiệu quả và thiếu bền vững?

Bốn là, do thiếu hiệu quả trong hoạt động giám sát, sự lệch hướng của các dòng tiền kích cầu đang đưa đến nhiều mối lo ngại về các bong bóng bất động sản và chứng khoán. Sự thực là nhiều nền kinh tế đã phải đối mặt với các nguy cơ này. Tình hình sẽ trở nên phức tạp hơn khi các chính phủ vẫn tiếp tục kích cầu, trong khi trên thực tế các giải pháp để ngăn chặn các hệ lụy này vẫn tỏ ra thiếu hiệu quả. Cùng với các nguy cơ về lạm phát, thâm hụt ngân sách, khủng hoảng nợ, biến động giá cả thế giới bất thường, thách thức về ổn định vĩ mô ở các nền kinh tế là rất đáng kể.

Năm là, khủng hoảng được coi là cơ hội để các quốc gia tái cấu trúc nền kinh tế, song tái cấu trúc kinh tế theo hướng nào lại là điều không dễ dàng vì trong điều kiện hiện nay, việc tái cấu trúc nền kinh tế trên định hướng phát triển bền vững đã không còn là vấn đề kinh tế thuần tuý. Việc nhận diện tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu và nước biển dâng, sự tương tác của các nhân tố an ninh phi truyền thống và cục diện mới của trật tự chính trị – an ninh toàn cầu, của vấn đề phát triển con người và các xung đột xã hội, là những thành tố cần thiết và quan trọng để thiết lập một cơ cấu kinh tế dựa trên công nghệ xanh và giá trị gia tăng cao, bảo đảm hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và thân thiện với môi trường trên quan điểm phát triển bền vững. Điều đó cũng có nghĩa là, trong giai đoạn tới, việc tiếp tục khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu phải được kết hợp chặt chẽ, đồng thời với việc chuẩn bị các điều kiện mang tính nền tảng cho yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế trên quan điểm tư duy mới về phát triển.

Chúng tôi quán triệt sâu sắc các vấn đề chung, phổ quát đặt ra cho thế giới, đồng thời chú trọng các vấn đề riêng có của mình. Mặc dù các vấn đề về thâm hụt ngân sách, lạm phát, nợ Chính phủ vẫn còn nằm trong tầm kiểm soát, song chúng tôi không xem nhẹ, mà tiếp tục phân tích và có những dự báo chuẩn xác về những nguy cơ đang tiềm ẩn trong nền kinh tế. Trong bối cảnh phức tạp, khó lường của nền kinh tế thế giới và các vấn đề bên trong, chúng tôi càng phải nhấn mạnh hơn các vấn đề an sinh xã hội và chính sách hỗ trợ đối với các tầng lớp dễ tổn thương. Chúng tôi chú trọng mục tiêu xã hội trong nội dung tái cấu trúc nền kinh tế vì nếu không quan tâm đến giải quyết việc làm, thu nhập và khắc phục đói nghèo cũng như ngăn chặn các vấn nạn xã hội thường gia tăng trong những thời khắc khó khăn của nền kinh tế – xã hội, cái giá của sự tăng trưởng thiếu chất lượng và bền vững sẽ là không hề nhỏ. Những người làm công tác nghiên cứu lý luận chúng tôi cần phải có nhận thức sâu sắc và đề ra các giải pháp khoa học và hợp lý cho các tình thế phát triển đã hoàn toàn thay đổi sau cuộc khủng hoảng.

Nhận thức rõ những vấn đề lớn đang đặt ra, trong năm 2010 và những năm tiếp theo, Đảng và Nhà nước Việt Nam sẽ tập trung thực hiện 6 nhóm giải pháp lớn sau đây:

Một là, thúc đẩy đầu tư, phát triển mạnh mẽ sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện từng bước vững chắc việc tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng trên quan điểm phát triển bền vững.

Hai là, đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.

Ba là, tiếp tục thực hiện các biện pháp điều hành linh hoạt, thận trọng chính sách tài chính, tiền tệ để ổn định vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát, phục vụ mục tiêu tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.

Bốn là, tăng cường các giải pháp, chính sách để tạo thêm việc làm, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và ổn định đời sống nhân dân.

Năm là, đẩy mạnh cải cách hành chính, phát huy hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Sáu là, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, công tác thông tin tuyên truyền; kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ đối ngoại, thông tin với nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội.

Chắc chắn tại Hội thảo này chúng tôi cũng sẽ được nghe các giải pháp ứng phó chính sách hiện tại và trong tương lai của các đồng chí. Rất mong chúng ta sẽ có nhiều câu hỏi, nhiều bình luận và thảo luận nhằm đóng góp tích cực vào việc hoàn thiện đường lối, chính sách phát triển của mỗi Đảng, mỗi nước cũng như trong thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai Nhà nước và hai dân tộc.

Việt Nam đánh giá cao thành công của các đồng chí Trung Quốc trong chính sách ứng với phó cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Trung Quốc hiện được coi như là niềm hy vọng giúp cho nền kinh tế thế giới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và thực tế là các đồng chí đã thể hiện được ưu thế độc đáo của mình và đã giành được nhiều thành công to lớn. Xuất phát từ nhiều điểm tương đồng giữa hai nước chúng ta, bài học kinh nghiệm của các đồng chí sẽ gợi mở nhiều điều cho chúng tôi trong hoạch định chính sách phát triển của mình cũng như trong thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước. Trên tinh thần anh em, cởi mở, tin cậy, thẳng thắn học hỏi và trao đổi lẫn nhau, tôi tin tưởng chắc chắn rằng Hội thảo lý luận lần thứ 5 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ thành công tốt đẹp, góp phần làm giàu kho tàng kinh nghiệm của chúng ta và tăng cường quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc.

Xin trân trọng cảm ơn./.

December 8, 2009

Thành tựu, con số và câu chuyện giảm nghèo

Filed under: Uncategorized — ktetaichinh @ 5:27 am
Tags: , ,

SGTT – Theo công bố của Chính phủ với các nhà tài trợ, trong năm 2009 đầy khó khăn này, 1% các hộ gia đình ở Việt Nam dự kiến sẽ thoát nghèo. Như vậy, sau gần bốn năm của nhiệm kỳ thủ tướng đương nhiệm, Việt Nam đã đạt được một sự bứt phá đáng kinh ngạc trong sự nghiệp giảm nghèo, khi tỷ lệ hộ nghèo giảm 9% từ mức 20% vào thời điểm cuối năm 2005.

Tuy nhiên, nhìn kỹ đằng sau thành tựu giảm nghèo người ta lại nhìn thấy những con số và những câu chuyện khác.

Hai câu chuyện thoát nghèo

Ông Nguyễn Văn Thắng, 42 tuổi, quê xã Tân Thành, huyện Kim Sơn, Ninh Bình, được xếp vào diện nghèo, do ông đau ốm từ lâu, và thu nhập gia đình chủ yếu dựa vào tiền công đan chiếu cói của bà vợ và cô con gái đầu lòng. “Trồng lúa chủ yếu để có gạo mà ăn, chứ nếu tính đầy đủ hầu như chẳng có mấy lãi, do giá lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu, hay thuê cày bừa, ngày càng tăng”, ông Thắng nói.

Nhưng thấy những trợ cấp của Nhà nước không đủ thuốc thang cho cha, và đảm bảo tiền học hành cho mình, hai cô con gái sau của ông lần lượt nghỉ học, sau khi học hết lớp 9, để phụ mẹ đan cói. “Bốn mẹ con cháu đổ đồng mỗi ngày kiếm được 60 ngàn đồng, cả tháng được ngót nghét 2 triệu. Trừ tiền thuốc thang cho tôi, gia đình tôi với năm khẩu đã được xếp lên diện cận nghèo”, ông hồ hởi khoe với phóng viên SGTT.

Trong khi đó, hộ bà Nguyễn Thị Lụa, cùng xóm với ông Thắng, lại được đưa ra khỏi danh sách nghèo theo một cách khác. Bà kể rằng mỗi ngày bà kiếm được khoảng 8 ngàn đồng tiền công đan sọt, cô con dâu kiếm gấp rưỡi, còn anh con trai trong làng ai thuê thì làm, còn không thì đi đánh giậm kiếm thêm con cua, con cá cho bữa ăn có thêm dinh dưỡng. Theo bà, hồi đầu năm nay, khi lập danh sách ở xã người ta đã đưa gia đình bà, gồm năm người kể cả hai đứa cháu nội, vào diện nghèo. Nhưng sau đó ra bình bầu, gia đình bà lại được chuyển sang danh sách cận nghèo.

“Mình tuy nghèo, nhưng có những người còn nghèo hơn, để người ta hưởng trợ cấp trước. Cùng bà con làng xóm cả, tranh cãi làm gì. Thế nào chẳng đến lượt”, bà lão giáo dân đã hơn 70 tuổi, vừa vòng một cánh tay ra sau đấm lưng, vừa thủng thẳng nói.

Một thành viên ban lãnh đạo xã Tân Thành, giấu tên, giải thích: “Huyện bảo năm ngoái, tỷ lệ hộ nghèo ở xã là 11%, năm nay phải phấn đấu đưa xuống dưới 10%. Chúng tôi đành chọn con số 9,9%, tính ra số hộ, rồi để họ tự bình bầu với nhau”.

Các con số nói gì?

Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2008, được tiến hành cùng với tổng cục Thống kê, Ngân hàng thế giới (WB) nhận xét rằng Việt Nam tiếp tục đạt được tiến bộ trong lĩnh vực giảm nghèo, tuy có sự khác biệt về phương pháp tính toán giữa tổ chức này và Chính phủ. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2008, theo WB, là 14%, so với 12%, theo Chính phủ.

Ông Martin Rama, chuyên gia kinh tế trưởng của WB tại Hà Nội, đồng ý rằng, bên cạnh những nỗ lực đáng khen ngợi của Chính phủ, việc Việt Nam giữ nguyên chuẩn nghèo suốt mấy năm vừa qua, bất chấp tỷ lệ lạm phát từng năm khá cao, là một trong nguyên nhân đạt được thành tích trên. Theo quyết định 170 của Thủ tướng Chính phủ, ký ngày 8.7.2005, chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010 là 200 ngàn đồng/người/tháng ở nông thôn và 260 ngàn đồng/người/tháng ở thành thị. Trong khi đó, chỉ số giá tiêu dùng 2006, 2007, 2008 và (dự kiến) 2009 lần lượt tăng 6,6%, 12,6%, 23% và (dự kiến) 6%.

Không phải chính phủ không nghĩ tới chuyện này. Hồi tháng 7.2008, thời điểm diễn ra hội nghị ban chấp hành Trung ương, trong đó có bàn về nông dân (chiếm tỷ lệ nghèo nhiều nhất), chính Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo bộ Lao động – thương binh – xã hội lập phương án điều chỉnh chuẩn nghèo, áp dụng cho giai đoạn 2009 – 2010. Năm tháng sau, bộ này đã trình Thủ tướng phương án nâng chuẩn nghèo lên 50% so với chuẩn nghèo 2005.

Tuy nhiên, phương án này đã không được phê duyệt, và một trong những nguyên nhân, theo các chuyên gia, là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, và ưu tiên cần dành cho những đối tượng khác. Theo ông Nguyễn Quang Thắng, vụ trưởng Lao động, văn hoá và xã hội, bộ Kế hoạch – đầu tư, số hộ thuộc diện cận nghèo (cao hơn chuẩn nghèo đang áp dụng và dưới chuẩn nghèo theo đề nghị điều chỉnh) là hơn một triệu.

Liên quan đến tỷ lệ nghèo theo chuẩn hiện tại, ông Thắng lại nhấn mạnh đến một thách thức rất đáng quan tâm (mà Trung Quốc đã mắc phải và đang chịu những hệ luỵ). Đó là nghèo hiện nay không còn là hiện tượng dàn trải trên diện rộng mà tập trung ở những địa bàn, những nhóm nhất định, chủ yếu là ở khu vực người dân tộc thiểu số sinh sống. “Có những nơi họ chiếm tới 95%, thậm chí 100%, số hộ nghèo”, ông Thắng nói.

WB cũng chia sẻ nhận định này, dựa trên những điều tra riêng của mình. “Báo cáo điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2008 cho thấy tiến bộ trong việc giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số là rất khiêm tốn. Tỷ lệ nghèo đói chỉ giảm từ 52,3% năm 2006 xuống 49,8% năm 2008, so với tốc độ giảm nghèo ở người Kinh và người Hoa (từ 10,3% xuống 8,5%)”, báo cáo của các chuyên gia WB viết.

Hành động của Chính phủ

Thay vì điều chỉnh chuẩn nghèo nói chung, cuối tháng 12 năm 2008, Thủ tướng đã ký nghị quyết 30a về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 (nay là 62 do chia tách) huyện nghèo nhất nước. Gói giải pháp bao gồm các chính sách cụ thể về hỗ trợ sản xuất, dưới hình thức tiền, hỗ trợ lãi suất tín dụng, hay gạo, để tạo việc làm, tăng thu nhập. Những thanh niên dân tộc, chưa một lần đặt chân tới các thành phố, thậm chí cũng được định hướng học nghề và ngoại ngữ để sang lao động ở các nước phát triển cao như Nhật Bản, hay Hàn Quốc.

Bộ trưởng Lao động Nguyễn Thị Kim Ngân cũng đã cam kết với các nhà tài trợ rằng trong năm tới, chuẩn nghèo mới sẽ được xây dựng cho thời kỳ 2011 – 2015, tương ứng với nhiệm kỳ của một Chính phủ mới. “Với chuẩn nghèo mới, không hẳn là tỷ lệ nghèo ắt phải tăng lên lại, nhưng, chắc chắn, sẽ có rất nhiều việc cho Chính phủ trong thời kỳ đó”, giám đốc WB tại Việt Nam Victoria Kwakwa nhận xét.

December 6, 2009

# Báo cáo của Goldman Sachs: Vietnam: Strong growth recovery with emerging cyclical risks (3-12-09) ◄

Filed under: Uncategorized — ktetaichinh @ 4:40 am
Tags: ,

Click to access Goldman_Sachs_Decl_2009.pdf

May 2, 2009

BÁO CÁO KINH TẾ VIỆT NAM 2008- 050109

Báo cáo “Kinh tế Việt Nam 2008” do báo Sài Gòn Tiếp Thị và trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và chính sách (CEPR) thuộc đại học Kinh tế – đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện. Báo cáo nhận định suy giảm và bất ổn của kinh tế của Việt Nam trong năm 2008 là do những bất cập của chính sách quản lý vĩ mô và những yếu kém về mặt cơ cấu của nền kinh tế, khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới đóng vai trò đẩy sâu thêm quá trình này. Nội công, ngoại kích, thách thức đổi mới lớn hơn bao giờ hết. Trong lúc bị động chờ khủng hoảng thế giới đi qua, cần chủ động điều trị “nội thương” để giảm tổn thất và chuẩn bị cho sự phục hồi

Kinh tế 2008 suy giảm: vì sao?

Những nhà nghiên cứu trẻ, khảo sát tình hình kinh tế năm 2008 của Việt Nam, nhìn thấy quá trình suy giảm từ trong những bất cập về quản lý vĩ mô và những yếu kém về mặt cơ cấu của nền kinh tế. Diễn biến khủng hoảng kinh tế của thế giới chỉ đẩy sâu quá trình suy giảm ấy

Với vai trò chủ biên báo cáo này, tiến sĩ Nguyễn Đức Thành nhận xét: “Có một thực tế dường như bị cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay dần dần che khuất, là những bất ổn vĩ mô của chúng ta đã xuất hiện từ đầu quý 4 năm 2007”. Ông dẫn chứng: Vào đầu quý 4/2008, khủng hoảng kinh tế toàn cầu mới tràn tới chúng ta thông qua sự thoái vốn đầu tư nước ngoài và sụt giảm cầu xuất khẩu. Nhưng từ trước đó, chúng ta đã gặp phải những khó khăn cơ bản như lạm phát cao, thâm hụt ngân sách và thâm hụt vãng lai cao, tỷ giá dao động khó lường và doanh nghiệp điêu đứng vì thắt chặt tiền tệ.

Những bất ổn vĩ mô

Những khó khăn ấy, theo TS. Phạm Thế Anh là do những nguyên nhân trong nước. Tăng trưởng tín dụng và cung tiền quá cao sau nhiều năm đã khiến cho tổng phương tiện thanh toán M2 vượt giá trị GDP danh nghĩa từ sau năm 2006, còn M1 xấp xỉ giá trị GDP danh nghĩa trong năm 2007. Tốc độ tăng trưởng tiền tệ vượt xa tốc độ tăng GDP thực tế trong một thời gian dài khiến lạm phát bùng nổ là điều không thể tránh khỏi.

Chính sách tiền tệ trong năm 2008 được TS Thế Anh nhận định là chậm trễ, thiếu linh hoạt, và thiếu nhất quán trong phản ứng. Những lúng túng đầu năm trong việc lựa chọn giữa mục tiêu bình ổn giá cả với thúc đẩy tăng trưởng và ổn định tỷ giá khiến cho các hành động chính sách trở nên bất nhất. Điều này một mặt làm cho việc kiềm chế lạm phát không đạt hiệu quả, mặt khác gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng thương mại. Vào cuối năm, các công cụ lãi suất của chính sách tiền tệ lại quá cứng và thắt chặt quá mức, cùng với sự cộng hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, đã khiến cho nền kinh tế càng thêm khó khăn. Các công cụ lãi suất của chính sách tiền tệ xa rời và không có vai trò dẫn dắt thị trường.

Đến lượt mình, những bất ổn vĩ mô tích tụ trong nội tại nền kinh tế bùng phát từ quý 4/2007 đã tác động tiêu cực lên thị trường chứng khóan, cuốn đi nhiều thành tựu trước đó của thị trường này trước đó. Sự giảm nhiệt của nền kinh tế nói chung đã làm thị trường suy giảm theo một khuynh hướng khó lòng đảo ngược. TS Nguyễn Đức Thành cũng chỉ ra rằng kỳ vọng của nhà đầu tư đóng vai trò quan trọng trong diễn biến của thị trường và vì vậy, sự đi xuống của thị trường từ giữa năm 2008 đến nay là có thể hiểu được. Theo ông, những điều kiện thực tiễn và chính sách vĩ mô có khả năng thay đổi kỳ vọng của nhà đầu tư sẽ là tác nhân tiên quyết cho sự phục hồi của thị trường trong thời gian tới. Kết quả tính toán cho phép xác định giá trị của VN–index tương ứng cho từng kịch bản bi quan, lạc quan. Thật đáng lo khi kết quả ước lượng mức dao động của VN–index trong năm 2009 (tương đương từ quý 2/2009 đến hết quý 1/2010) nằm trong khoảng 260 điểm tới 540 điểm.

Lùi về trước những bất ổn vĩ mô trong năm 2008 nói trên, dưới góc nhìn “tiết kiệm và đầu tư”, TS Phạm Văn Hà phát hiện rằng nếu như năm 1997 chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ chiếm 28,77% GDP thì cũng với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%), chúng ta phải đầu tư tới 43,13% GDP. “Chúng ta hoàn toàn có thể đặt câu hỏi phải chăng vốn đầu tư tăng liên tục trong mười năm qua đã có đủ hiệu quả như năm 1997”, ông Hà nói. Và, quan trọng hơn, là phải tìm ra được câu trả lời vì sao.

Và cơ cấu nền kinh tế

Câu trả lời dường như nằm ở năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp với những phân tích. Tiến sĩ Tô Trung Thành chỉ ra rằng trong khi các quốc gia khác như Trung Quốc và ASEAN đã có những nỗ lực rất mạnh mẽ để nâng tầm cạnh tranh công nghiệp thông qua tăng cường giá trị gia tăng công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu sản xuất sang những ngành hàng sử dụng công nghệ cao, tăng cường tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ trung – cao, Việt Nam trong suốt gần một thập niên đầy những biến động về xu thế cạnh tranh toàn cầu, dường như không có bất kỳ một sự thay đổi nào về năng lực cạnh tranh công nghệ. Nước ta vẫn dựa vào lợi thế cạnh tranh so sánh truyền thống trong những ngành công nghiệp hàm chứa ít công nghệ, có giá trị gia tăng thấp nên dễ bị tổn thương, đã được bộc lộ rõ nét trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuối năm 2008. Đồng thời, tỷ trọng sản xuất cũng như xuất khẩu những ngành hàm lượng công nghệ trung và cao rất thấp, thậm chí kém xa các nước khác trong khu vực ở thời điểm cách đây từ 10 đến 20 năm, với cùng trình độ phát triển và nguồn lực tương đương.

“Có một thực tế dường như bị cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay dần dần che khuất, là những bất ổn vĩ mô của chúng ta đã xuất hiện từ đầu quý 4 năm 2007”

Bức tranh u tối này thể hiện ngay cả trong khu vực FDI – nơi được kỳ vọng sẽ thu hút được công nghệ tiên tiến của các nước. Theo thạc sĩ Jago Penrose, Michael Kalecki (1954) từ lâu đã chỉ ra rằng là sự ưu tiên và chiến lược của các doanh nghiệp nước ngoài có thể khác với chính phủ nội địa. Những nghiên cứu gần đây hơn đã xác nhận xu hướng này. Các doanh nghiệp FDI chỉ quan tâm xây dựng các chiến lược của mình so cho phù hợp với nền kinh tế địa phương, có cân nhắc đến nguồn tài nguyên nội địa, trình độ lao động, quy mô và thị hiếu thị trường nội địa… Thực tế tại nước ta, các doanh nghiệp FDI có xu hướng đầu tư vào các ngành sử dụng công nghệ lạc hậu và lao động không có kỹ năng. Một báo cáo của UNDP cho thấy rằng để ứng phó trước áp lực phải tăng tiền lương danh nghĩa, hầu hết các công ty may mặc với công nghệ chẳng có gì là hiện đại đã hạ thấp tiêu chuẩn tuyển dụng của họ, lựa chọn ngày càng nhiều các công nhân không có kỹ năng.

Chính sách thương mại quốc tế cũng là một minh chứng cho sự yếu kém của nền kinh tế. Theo TS Từ Thuý Anh, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu 2008 còn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản. Các mặt hàng công nghiệp chế biến chủ yếu vẫn mang tính chất gia công, với biểu hiện thương mại nội ngành là chủ yếu (doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu, phụ liệu, linh kiện, thực hiện gia công, lắp ráp rồi xuất khẩu).

Đã có những chuyển dịch rõ nét theo hướng tích cực là đa dạng hoá thị trường xuất khẩu nhưng thị trường nhập khẩu vẫn tập trung chủ yếu vào khu vực châu Á, đặc biệt là tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc ngày càng cao. Điều này, theo TS Thuý Anh “dường như minh chứng rằng Việt Nam đang chịu nhiều tác động chuyển hướng thương mại hơn là tạo lập thương mại từ các thoả thuận tự do hoá thương mại khu vực như AFTA và ACFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc). Việt Nam bị thiệt nhiều hơn là được lợi từ các liên kết kinh tế vùng”.

Khó chồng khó

Lùi về trước những bất ổn vĩ mô trong năm 2008, dưới góc nhìn “tăng trưởng và chu kỳ kinh tế”, TS Phạm Văn Hà, cho rằng năm 2008 là năm đánh dấu nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn thu hẹp của chu kỳ kinh tế. Sử dụng các công cụ định lượng cơ bản lượng nhằm loại bớt các yếu tố mùa vụ và phân tích khuynh hướng dài hạn của nền kinh tế, ông vạch ra rằng tốc độ tăng trưởng đã có dấu hiệu nóng và lên đến đỉnh vào quý 4/2007. Giai đoạn thu hẹp chính thức bắt đầu từ quý 1/2008 và trở nên rõ rệt vào quý 2/2008. Dưới tác động của khủng hoảng thế giới vào quý 3/2008, nền kinh tế của ta đã không có được một cuộc hạ cánh “mềm” như kỳ vọng mà tiếp tục bị đẩy sâu vào giai đoạn đi xuống. Theo ông, trong cả ba quý cuối của năm 2008, kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng dưới mức tiềm năng, mặc dù chính mức tiềm năng này cũng đang giảm dần. Cho đến cuối năm, những dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang chìm sâu vào giai đoạn thu hẹp thể hiện tương đối rõ: tốc độ tăng trưởng đã bắt đầu suy giảm; thị trường chứng khoán xì hơi; giảm giá và ảm đạm trên thị trường bất động sản. “Hiện chưa có dấu hiệu gì nền kinh tế đã chạm đáy của thời kỳ thu hẹp”, TS Hà nhận định.

Trong bối cảnh này, các tác giả chỉ ra rằng, chính sách vĩ mô – các nhóm chính sách tài khoá, tiền tệ và cán cân thanh toán bị ràng buộc chặt chẽ với nhau và dư địa cho việc thực hiện không còn nhiều vì nền kinh tế đang trong tình trạng mất cân đối vĩ mô khá nghiêm trọng, thể hiện qua thâm hụt ngân sách cao, thâm hụt vãng lai cao và tình trạng đô la hoá cao.

Các tác giả dự báo rằng tăng trưởng kinh tế của nước ta chỉ vào khoảng 4,7% với mức lạm phát được cho là khó dự báo hơn vì phụ thuộc tình hình kinh tế thế giới (thông qua đó ảnh hưởng đến giá nguyên liệu thô) và mức độ, cách thức can thiệp vĩ mô của chính phủ nhưng có nguy cơ bùng phát vào cuối năm. Tỷ giá sẽ diễn biến phức tạp do ảnh hưởng đa chiều của các nhóm chính sách vĩ mô. Nhìn chung có khuynh hướng tăng vì khả năng thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể là lớn.

Nhóm tác giả

Tiến sĩ Phạm Thế Anh: tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế ở Anh, từng tham gia Nhóm tư vấn chính sách của bộ Tài chính, giảng viên đại học Kinh tế quốc dân, kiêm nghiên cứu viên cao cấp của CEPR, chuyên gia về kinh tế vĩ mô và dự báo.

Tiến sĩ Từ Thuý Anh: tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế ở Mỹ, giảng viên đại học Ngoại thương Hà Nội, kiêm nghiên cứu viên cao cấp của CEPR, chuyên gia kinh tế quốc tế.

Tiến sĩ Phạm Văn Hà: tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Úc, hiện đang làm việc trong một dự án của UNDP, cộng tác viên của CEPR, chuyên gia kinh tế vĩ mô và mô hình hoá (CGE).

Tiến sĩ Lê Hồng Giang: tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế ở Úc, nguyên giảng viên Chương trình kinh tế Fulbright tại TP. HCM, giám đốc quỹ Ngoại hối của công ty đầu tư Tactical Global Management, Australia, chuyên gia kinh tế vĩ mô, tài chính quốc tế và mô hình hoá.

thạc sĩ Jago Penrose: tốt nghiệp ở Anh, nguyên là chuyên gia kinh tế của UNDP Việt Nam, chuyên gia về tổ chức doanh nghiệp và các ngành công nghiệp.

Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành (chủ biên): tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế ở Nhật, từng tham gia Nhóm tư vấn chính sách của bộ Tài chính, giám đốc CEPR, giảng viên đại học Kinh tế – đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên gia về kinh tế vĩ mô.

Tiến sĩ Tô Trung Thành: tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế ở Anh, giảng viên khoa kinh tế học – đại học Kinh tế Quốc dân, cộng tác viên của CEPR, chuyên gia kinh tế vĩ mô và kinh tế lượng, các mô hình dự báo

March 21, 2009

PCI 2007: đằng sau những con số

Filed under: Báo cáo,kinh tế — ktetaichinh @ 6:50 pm
Tags: , ,

Như thông lệ hai năm gần đây, năm nay TBKTSG tiếp tục phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) để công bố chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). PCI 2007 tiếp tục đo lường và đánh giá thực tiễn điều hành kinh tế của chính quyền cấp tỉnh, qua đó thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân tại các tỉnh, thành trên cả nước.

Mặt bằng chung được nâng cao
So sánh kết quả PCI của năm nay với năm trước, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng thực trạng điều hành kinh tế của các tỉnh ở Việt Nam, nhìn chung, đang được cải thiện theo thời gian.

Cụ thể chỉ số PCI 2007 của tỉnh ở vị trí trung bình đã tăng 3,2 điểm so với PCI 2006 (từ 52,4 lên 55,6 điểm). Năm nay, Bình Định và Vĩnh Long cũng đã vượt qua mốc điểm 69 – là ranh giới giữa nhóm được xếp hạng tốt và rất tốt. Tương tự, có tới tám tỉnh vượt qua mức 60 điểm để đứng vào nhóm các tỉnh được xếp hạng tốt.

Mặc dù điểm số PCI tăng lên nhưng thứ hạng của các tỉnh dẫn đầu và các tỉnh “cầm đèn đỏ” trong cuộc đua này lại có rất ít sự thay đổi (xem bảng xếp hạng). Bình Dương, Đà Nẵng, Vĩnh Long, Bình Định tiếp tục là những tỉnh dẫn đầu trong bảng xếp hạng PCI 2007. Kế đó là 13 tỉnh, thành được xếp vào nhóm tốt, trong đó có một số trung tâm kinh tế lớn như TPHCM, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Các tỉnh đứng cuối bảng xếp hạng dường như cũng ít thay đổi, vẫn là Đak Nông, Lai Châu, Cao Bằng và Điện Biên. Các tỉnh nằm ở tốp giữa tuy có thay đổi về thứ hạng song không có những thay đổi lớn, ngoại trừ hai trường hợp là Hà Tây và Hà Nội. Hà Tây đã có những nỗ lực vượt bậc để cải thiện môi trường đầu tư trong thời gian qua. Kết quả là Hà Tây từ vị trí thứ 62 của bảng xếp hạng năm ngoái đã vươn lên vị trí thứ 41 trong năm nay, cải thiện được 21 bậc. Riêng với Hà Nội, năm ngoái thành phố này tụt xuống vị trí thứ 40 và là một trong những điều bất ngờ của PCI 2006, nhưng năm nay đã được xếp vào nhóm khá, ở vị trí thứ 27.

Vì sao cùng điều kiện ban đầu nhưng trình độ phát triển khác nhau?
Bằng cách loại trừ sự ảnh hưởng của các điều kiện truyền thống ban đầu (như vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, quy mô GDP, nguồn nhân lực) tới sự tăng trưởng kinh tế, kết quả xếp hạng PCI đã góp phần lý giải sự khác biệt về phát triển kinh tế giữa các tỉnh, trong đó nguyên nhân quan trọng là do thực tiễn điều hành kinh tế của chính quyền cấp tỉnh.

Một ví dụ: Năm 1990, tỉnh Nghĩa Bình lúc đó được tách ra thành hai tỉnh là Quảng Ngãi và Bình Định. Từ đó mỗi tỉnh có hướng phát triển riêng. Dù cả hai tỉnh này có nhiều điểm tương đồng về các điều kiện truyền thống ban đầu nhưng hiện nay Bình Định liên tục nằm trong nhóm năm tỉnh có thứ hạng PCI cao nhất nước. Trong khi đó, Quảng Ngãi chỉ được xếp hạng 45/64 trong PCI 2007, kể cả khi tỉnh đã có quyết định xây dựng nhà máy lọc dầu và khu kinh tế Dung Quất.

Các chuyên gia kinh tế khi nghiên cứu thực hiện PCI 2007 đã dùng phương pháp phân tích hồi quy đa biến để đưa đến kết quả sau đây : trong điều kiện ban đầu không thay đổi, nếu Quảng Ngãi có thể tăng được điểm số hiện tại ở chỉ số tính minh bạch và tiếp cận thông tin (một trong 10 chỉ số thành phần cấu thành nên chỉ số PCI) lên bằng với điểm số của Bình Định, tức từ 5,75 lên 7,72, thì Quảng Ngãi có thể tăng thêm 11 doanh nghiệp dân doanh; đầu tư mới trên đầu người tăng thêm 6,4%; lợi nhuận trên mỗi doanh nghiệp của tỉnh sẽ tăng thêm 8,7 triệu đồng. Hoặc nếu Quảng Ngãi có thể cải thiện mức điều hành kinh tế để tăng điểm cho chỉ số PCI (chưa tính trọng số) từ 54,75 lên 70,2 (điểm hiện tại của Bình Định), thì kết quả tác động còn ấn tượng hơn rất nhiều. Đó là, sẽ thêm được 80 doanh nghiệp mới; đầu tư tư nhân trên đầu người tăng 50%; và lợi nhuận trên mỗi doanh nghiệp tăng thêm 68 triệu đồng.

Điều này cho thấy dù ở bất kỳ điều kiện truyền thống nào, các địa phương có khả năng điều hành kinh tế tốt hơn, sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn thì sẽ phát triển cao hơn.

Đằng sau chỉ số PCI 2007
Đi sâu vào phân tích sự thay đổi các chỉ số thành phần cấu tạo nên chỉ số PCI, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng hai lĩnh vực có sự cải thiện lớn nhất là các thủ tục đăng ký kinh doanh (chỉ số thành phần thứ nhất) và việc giảm chi phí thời gian để thực hiện các quy định thủ tục hành chính và thanh tra, kiểm tra (chỉ số thành phần thứ tư). Như vậy, đối với các chỉ số thành phần còn lại, yêu cầu cải thiện hơn nữa vẫn được xem là cần thiết.

Trước hết, về chỉ số gia nhập thị trường. Theo kết quả nghiên cứu, thời gian đăng ký kinh doanh được rút ngắn, trung bình từ 20 ngày xuống còn 15 ngày, đăng ký bổ sung từ 10 ngày xuống 7 ngày. Số giấy phép cần thiết để khởi nghiệp cũng giảm từ 4 giấy phép trong năm 2006 xuống còn 2,5 giấy phép vào năm 2007.

Bên cạnh đó, thời gian để doanh nghiệp có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (kể cả thời gian thương lượng với chủ đất cũ) đã giảm từ mức trung bình là 231 ngày trong PCI 2006 xuống còn 90 ngày trong năm nay. Tuy nhiên, theo các chuyên gia nghiên cứu, đây vẫn là khoảng thời gian dài và chính quyền các tỉnh cần có sự hỗ trợ nhiều hơn cho nhà đầu tư.

Thứ hai, liên quan đến chỉ số chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước, hầu hết các tỉnh đạt điểm số thấp ở chỉ số này vào năm trước thì năm nay đều vượt lên, trong khi các tỉnh đã đạt điểm số cao thì tiếp tục duy trì sự thành công này. Tuy nhiên, cũng trong chỉ số này, số doanh nghiệp phải bỏ ra trên 10% thời gian hoạt động để thực hiện các thủ tục hành chính vẫn đứng ở mức 21%, số lần kiểm tra của tỉnh trung bình là một lần trong năm và thời gian trung bình cho hoạt động kiểm tra thường xuyên nhất (kiểm tra về thuế) là 8 tiếng.

Thứ ba, sự thay đổi lớn nhất trong chỉ số tính minh bạch là số doanh nghiệp thừa nhận phải thương lượng với cán bộ thuế giảm dần, từ 61% của năm ngoái xuống còn 45% của năm nay (số doanh nghiệp phản hồi trong hai cuộc điều tra chênh lệch không lớn, 6.379/6.700). Tuy nhiên bên cạnh những thành quả trên, các doanh nghiệp cũng cho rằng việc tiếp cận các văn bản chính sách cần thiết cho hoạt động kinh doanh không dễ dàng. Ngoại trừ một số tỉnh đã công khai các văn bản này, ở các tỉnh được xếp hạng trung bình có tới 25% số doanh nghiệp tin rằng không thể tiếp cận được các văn bản nói trên, trong khi 37% số doanh nghiệp khác cho rằng có thể tiếp cận được nhưng sẽ rất khó khăn.

Thứ tư, dù chỉ số thành phần về thiết chế pháp lý tăng lên 0,7 điểm nhưng vẫn tiếp tục là chỉ số thành phần có điểm số thấp nhất so với các chỉ số còn lại. Số doanh nghiệp tin tưởng vào cơ chế giải quyết tranh chấp của tòa án còn rất thấp, chỉ khoảng hơn 10%, cao nhất cũng chỉ đạt 29%. Điều này cho thấy việc cải cách hệ thống pháp lý vẫn là mục tiêu ưu tiên trong quá trình phát triển của Việt Nam.

Cuối cùng, hai chỉ số thành phần bị giảm điểm trong PCI 2007 chính là chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân và đào tạo lao động, tuy nhiên sự giảm sút này cũng không đáng kể. Vấn đề đáng lo ngại khác là chi phí không chính thức dường như vẫn khó kiểm soát. 70% số doanh nghiệp của tỉnh thuộc nhóm trung bình tin rằng các doanh nghiệp trong cùng ngành phải trả các khoản hối lộ, 12% doanh nghiệp thừa nhận phải trả trên 10% doanh thu hàng năm của họ cho các khoản chi phí không chính thức, và 39% số doanh nghiệp tin rằng các cán bộ nhà nước sử dụng các quy định của địa phương để thu lợi riêng. Các tỷ lệ trên đây vẫn “ổn định” trong vòng hai năm qua.

Những vấn đề đặt ra cho các nhà làm chính sách
Một trong những thách thức trước mắt về mặt chính sách, theo nhóm nghiên cứu xây dựng chỉ số PCI 2007, là sự xuất hiện tình trạng phát triển không đồng đều giữa các tỉnh. Chỉ số PCI năm nay cho thấy hiện tượng tụt hậu của một số tỉnh có điều kiện truyền thống kém và năng lực điều hành kinh tế còn hạn chế. Nếu xu hướng này tiếp diễn sẽ nảy sinh những vấn đề đáng lo ngại về các chính sách phân bổ nguồn lực của Chính phủ và ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế.
Qua phân tích các dữ liệu PCI, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng tỉnh nào có thực tiễn điều hành kinh tế tốt sẽ thúc đẩy việc hàng triệu hộ kinh doanh cá thể “chính thức hóa” hoạt động kinh doanh của mình, tức là chuyển qua hoạt động theo hình thức  doanh nghiệp – một quyết định có những ảnh hưởng quan trọng về mặt tài chính và kinh tế.

Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng xem xét kết quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước mới được cổ phần hóa gần đây trong mối liên hệ với sự điều hành kinh tế được PCI đo lường. Kết quả cho thấy các doanh nghiệp cổ phần hóa hoạt động hiệu quả hơn ở các tỉnh có điểm số PCI cao hơn.

Quỳnh Như

Chi tiết bản báo cáo download tại đây

Sự khác biệt giữa các vùng miền qua PCI 2007

Điều tra PCI 2007 cho thấy có sự khác biệt về điều hành kinh tế giữa khu vực thành phố và nông thôn, giữa các tỉnh phía Nam và phía Bắc và giữa các vùng kinh tế của Việt Nam.

Năm thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Hải Phòng và Cần Thơ) có bình quân điểm số PCI cao hơn khoảng 6,8 điểm so với 59 tỉnh còn lại (61,89 so với 55,06). Những lĩnh vực lợi thế của các thành phố so với các tỉnh là chỉ số đào tạo lao động và chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Khác biệt này có thể giải thích được vì các thành phố lớn của Việt Nam thường có nhiều nguồn lực hơn để thúc đẩy các hoạt động hỗ trợ kinh doanh, có nhiều trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp, các trường dạy nghề, trung tâm giới thiệu việc làm hay tổ chức được nhiều hội chợ, các sự kiện xúc tiến thương mại và đầu tư hơn… Ngoài ra, các hiệp hội doanh nghiệp ở các thành phố lớn cũng nhiều hơn, thường năng động và có ảnh hưởng lớn hơn so với tại các tỉnh.

Nếu lấy tỉnh Quảng Trị trở ra là mốc thì nhìn chung các tỉnh phía Nam trong xếp hạng PCI 2007 có điểm số cao hơn 5,68 điểm so với các tỉnh phía Bắc (58,26 so với 52,58). Các tỉnh phía Nam có 7 trên 10 chỉ số thành phần của PCI 2007 có điểm cao hơn đáng kể so với bình quân các tỉnh phía Bắc, đó là chỉ số tiếp cận đất đai, tính minh bạch, chi phí thời gian, tính năng động, chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đào tạo lao động và thiết chế pháp lý. Các chỉ số còn lại như chi phí gia nhập thị trường, chi phí không chính thức và ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước gần như đồng nhất trên cả hai miền.

Tình trạng phát triển kinh tế và thu hút đầu tư không đều giữa các tỉnh những năm qua đã thành xu hướng rõ rệt, đặc biệt khoảng cách chênh lệch này ngày càng lớn. Thống kê năm 2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy chỉ riêng 10 tỉnh, thành phố đã chiếm tới 70% số lượng doanh nghiệp dân doanh đăng ký và 65% số vốn đăng ký của cả 64 tỉnh, thành. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì cũng 10 tỉnh, thành phố đó chiếm tới 42% GDP và 60% các doanh nghiệp dân doanh đang hoạt động. Như đã được chứng minh qua nghiên cứu PCI từ năm 2005 đến nay, yếu tố rất quan trọng góp phần tạo ra sự khác biệt về phát triển kinh tế giữa các tỉnh là chất lượng điều hành kinh tế. Nhóm nghiên cứu PCI nhận thấy rằng các điều kiện truyền thống như vị trí địa lý, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng ban đầu chỉ giải thích 46% sự khác nhau trong GDP bình quân đầu người, 52% sự khác nhau trong GDP, 84% sự khác nhau trong số các doanh nghiệp đang hoạt động và 55% sự khác nhau trong đầu tư giữa các tỉnh. Tuy vậy, thay đổi trong điều hành kinh tế của các tỉnh (thể hiện qua mức độ tăng điểm của chỉ số PCI giữa các năm 2005, 2006 đến 2007) những năm qua là không giống nhau. Điển hình như sáu nhóm tỉnh được xếp hạng từ thấp cho đến rất tốt trong bảng xếp hạng PCI năm 2006 có tốc độ cải cách điều hành kinh tế không đều nhau. Các tỉnh trong nhóm tốt của năm 2006 thay đổi nhanh hơn các tỉnh trong nhóm khá. Các tỉnh nằm trong nhóm thấp của năm 2006 lại cải thiện chậm nhất trong sáu nhóm. Nếu xu hướng này còn tiếp tục trong những năm tới thì có thể dự đoán được một số tỉnh sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn so với các tỉnh khác về chất lượng điều hành kinh tế và phát triển kinh tế.

Đậu Anh Tuấn (*)

(*) Tác giả là thành viên nhóm nghiên cứu PCI 2007, đang làm việc tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

Có cần con dấu? (ý kiến cuả TS. Nguyễn Quang A) 111107

Filed under: Báo cáo,kinh tế — ktetaichinh @ 6:49 pm
Tags: , ,

Ngày 9-11-2007 Ngân hàng Nhà nước VN, Ngân hàng Thế giới và Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam đã tổ chức hội thảo về báo cáo này. VN đứng thứ 91/178, cải thiện ba bậc so với năm ngoái. Từ sự so sánh về môi trường kinh doanh của các nước, tôi đề nghị nên bỏ qui định về con dấu (điều 36 Luật doanh nghiệp). Ai đã kinh doanh với các hãng nước ngoài đều thấy họ không dùng con dấu. Nước ta là một trong bảy nước còn dùng con dấu, 171 nước khác không dùng!

on dấu có ý nghĩa gì? Nghị định 58/2001 về quản lý và sử dụng con dấu cho rằng: “Con dấu thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức và các chức danh nhà nước”. Đấy có phải là chức năng của con dấu? Nếu đúng thế liệu con dấu có thực hiện được chức năng ấy không?

Con dấu là một công cụ để in, ấn, đóng lên tài liệu để nhận thực, xác thực nó cùng với chữ ký. Như vậy chức năng của con dấu là xác thực. Và có thể dùng bất cứ dấu hiệu đặc trưng rất hiếm nào của một đối tượng để làm cái xác thực nó. Thí dụ, với cá nhân có thể là mã ADN, hình mẫu con ngươi, dấu vân tay, chữ ký (theo thứ tự kém dần của độ xác thực). Chức năng xác thực của con dấu là vô cùng kém (tuy đã được dùng từ thời thượng cổ). Chữ ký cũng có thể bị giả mạo, song giả mạo con dấu dễ hơn rất nhiều (nhất là với các phương tiện in, khắc ngày nay) và việc có quá nhiều con dấu giả (kể cả dấu có hình quốc huy) là một minh chứng cho điều đó.

Một dụng cụ dễ làm giả thì chức năng xác thực của nó bằng không. Nhưng người ta vẫn thích dùng con dấu, đó là vấn đề thuần túy tâm lý. Ngày nay có nhiều kỹ thuật xác thực hữu hiệu hơn con dấu rất nhiều. Có thể thấy chúng ta đã hiểu sai về chức năng của con dấu, và cái con dấu như đang thịnh hành không làm được chức năng xác thực. Chính vì thế việc bỏ dùng con dấu đối với các doanh nghiệp, tổ chức xã hội là rất nên làm (đối với cơ quan nhà nước có thể dùng chỉ như biểu tượng của quyền uy, nhưng để “xác thực”, để “khẳng định giá trị pháp lý” thì không).

Chính vì các lý do trên, tôi kiến nghị Quốc hội thông qua một luật (dưới 200 chữ) với nội dung: con dấu của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội không mang giá trị pháp lý (tức là tùy họ dùng hay không dùng, và nếu dùng mẫu mã do họ tự quyết định) và hủy bỏ tất cả các qui định bắt buộc liên quan đến con dấu trong tất cả các qui định pháp luật liên quan.

Đơn giản với vài trăm chữ như vậy, chúng ta có thể tiết kiệm cho đất nước hàng ngàn tỉ đồng mỗi năm và vô số thời gian của các doanh nghiệp và tổ chức, cải thiện đáng kể môi trường kinh doanh, để nước ta không còn trong số 4% nước còn thủ tục dùng con dấu rườm rà, tốn kém, mà không có ý nghĩa gì.

NGUYỄN QUANG A (Viện Nghiên cứu phát triển ID)

Ngân hàng Thế giới: Việt Nam nên đầu tư nhiều hơn vào nông nghiệp (báo cáo) 121107

Filed under: Báo cáo,kinh tế — ktetaichinh @ 6:47 pm
Tags: , ,

(Nguồn: Thanh Niên 11/12/07) Hôm qua 11.12, tại Hà Nội, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố Báo cáo phát triển thế giới 2008 trong đó nhận định rằng, đầu tư nhiều hơn vào nông nghiệp tại các nền kinh tế đang chuyển đổi (bao gồm cả Việt Nam) sẽ quyết định lợi ích của nông dân nghèo sống ở những nước này.

“Khi Việt Nam chuẩn bị bước vào vị thế là nước có mức thu nhập trung bình và cao hơn, vấn đề là liệu sự phát triển có lợi cho tất cả mọi người còn tồn tại nữa không? Cải thiện năng suất nông nghiệp và tạo cơ hội cho người nghèo ở nông thôn và các dân tộc thiểu số là cần thiết để không ai bị bỏ rơi”, ông Martin Rama, chuyên gia kinh tế trưởng WB – nhận định. Bản báo cáo cũng cho rằng một cách xóa đói nghèo là thông qua các cuộc cách mạng nông nghiệp giá trị cao. Theo ông Derek Byerlee, Chủ biên Báo cáo thì: “Các nền kinh tế đang chuyển đổi, bao gồm Việt Nam, phải chuyển từ cách mạng xanh sang một nền nông nghiệp mới có giá trị cao – vì thu nhập đô thị tăng cùng nhu cầu đối với các sản phẩm có giá trị cao ở thành phố đang là động cơ tăng trưởng nông nghiệp và giảm nghèo.

“Tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam cho đến nay đã đem lại lợi ích cho cả vùng đô thị và nông thôn. Năm 1993, có tới 2/3 số dân nông thôn được coi là nghèo. Ngày nay, con số này giảm xuống chỉ còn 1/5″ – ông Martin Rama phát biểu tại lễ công bố.

Như Nguyễn – Hữu Trà

Chi tiết thông cáo báo chí và download báo cáo tại đây.

Giá cả tại VN “dễ chịu” với du khách nước ngoài 120107

Filed under: Báo cáo,kinh tế — ktetaichinh @ 6:46 pm
Tags: ,

(Nguồn: Tuổi Trẻ 2/12/07) Kết quả nghiên cứu được công bố hôm 10-12 của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho thấy chỉ số mức giá của VN ở vị trí 73, mức thấp thứ hai trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Trả lời Tuổi Trẻ từ Manila (Philippines), tiến sĩ Bishnu D.Pant, trợ lý chuyên gia kinh tế trưởng – bộ phận nghiên cứu chính sách và các chỉ số phát triển của ADB, nói chỉ số của VN có nghĩa là người dân ở hầu hết các nước châu Á sẽ được khuyến khích tới thăm VN vì chi phí tiêu dùng ở đây rẻ.

Theo tiến sĩ kinh tế Lê Đăng Doanh, chi phí rẻ là một lợi thế để VN thu hút khách du lịch và là một trong nhiều lý do mà nhiều người nước ngoài thích ở VN. “Nếu lĩnh lương ở Nhật Bản mà sống ở VN thì rất tốt” – ông nói. Tuy nhiên, lợi thế này chỉ mang tính tạm thời vì chưa tính đủ bảo hiểm xã hội, chi phí môi trường. “Về lâu dài, phải có dịch vụ chất lượng cao thì mới thu hút du lịch thật sự. Khi chính sách an sinh xã hội đầy đủ thì mặt bằng giá sẽ cao lên chứ không thấp như vậy”.

Chương trình so sánh quốc tế là chương trình lớn nhất từ trước tới nay của ADB, so sánh 146 nền kinh tế về mặt thu nhập, chi phí tiêu dùng và hình thành vốn. Đây là một phần của sáng kiến toàn cầu cho phép so sánh giữa các nền kinh tế về sức mua dựa trên giá trị tiền và mức sống. Dựa trên tỉ số mức giá, quần đảo Fiji, Hong Kong là những nơi giá cả đắt đỏ nhất. Tiếp sau đó là Macau, Singapore, Đài Bắc và quần đảo Maldives.

KHỔNG LOAN

Chi tiết báo cáo có thể download tại đây.

Create a free website or blog at WordPress.com.