10/06/2010 13:43:56
– Trong bức điện chia buồn được gửi đi ngay trong sáng ngày ông Võ Văn Kiệt từ trần, 11/6/2008, ông Lý Quang Diệu viết: “Ông Kiệt sẽ được tất cả mọi người nhớ đến”.
LTS: Bee xin đăng bài viết để tưởng nhớ Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, 2 năm sau ngày mất của ông (11/6/2008 – 11/6/2010).
|
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong ngày khánh thành đường dây 500KV. Ảnh sưu tầm |
Tên tuổi của Thủ tướng Võ Văn Kiệt thường được gắn với những công trình lớn: Có những công trình mang dấu ấn của ông từ khi ra quyết định, thi công, cho đến khi phát huy tác dụng, như Đường dây 500 KV, Kênh T 5 – thoát lũ từ Tứ Giác Long Xuyên ra Biển Tây; Có những công trình, ông “chịu trách nhiệm về mặt chủ trương” như Dung Quất; Có những công trình khi đương quyền, ông chỉ mới đưa ra sáng kiến như “Đường Trường Sơn Công Nghiệp Hóa”, về sau được gọi là Đường Hồ Chí Minh…
Tuy nhiên, những quyết định có ảnh hưởng lớn nhất của ông không chỉ là các công trình mà còn có những chủ trương, chính sách quan trọng. Trong đó, có những chủ trương làm thay đổi cục diện cuộc chiến tranh ở miền Nam; phá vỡ cơ chế quan liêu bao cấp, nuôi dưỡng những nhân tố “Đổi mới”; và, những chính sách đưa một nền kinh tế tập trung quan liêu chuyển sang kinh tế thị trường và đưa một Việt Nam bị cấm vận hội nhập với phần còn lại của thế giới.
Chủ trương “không mơ hồ ảo tưởng” trước Hiệp định Paris
Sau lần ra Bắc dự Đại hội Đảng lần thứ II, năm 1951, ông Võ Văn Kiệt trở lại miền Nam và liên tục bám trụ trên Chiến trường cho đến ngày hòa bình. Năm 1957, sau một tháng dự họp Xứ ủy ở Phnompênh, dưới sự chủ trì của Bí thư Lê Duẩn, bàn về “Đường lối Cách mạng miền Nam”, ông được điều từ miền Tây lên Sài Gòn.
Từ Campuchia ông Kiệt về Tây Ninh để tìm cách tiếp cận địa bàn khi mà hầu hết những cơ sở cũ ông vừa nhận “bàn giao” đều vỡ hết. Nhiều Khu ủy viên vừa nối được liên lạc đã bị bắt. Ông Kiệt quyết định xây dựng hoàn toàn cơ sở mới, ra lệnh chưa được móc nối với cơ sở cũ, phòng địch để lại cài bẫy. Cũng trong giai đoạn này, ông đưa ra một đề nghị được Xứ ủy chấp nhận: lấy Gia Định làm bàn đạp thâm nhập Sài Gòn – Chợ Lớn, thành lập Khu ủy Sài Gòn – Gia Định. Sài Gòn – Gia Định từ sự liên kết để kháng chiến, sau này hợp nhất thành một đơn vị hành chính.
Cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh kể, năm 1963, khi ông được cử vào công tác tại Bộ Chỉ huy Miền, sau khi báo cáo với Trung ương Cục ý kiến chỉ đạo “của anh Lê Duẩn và anh Văn Tiến Dũng” về việc “xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang cả trong đô thị và vùng ven”, Tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh Miền nói ngay, “Vấn đề đô thị phải mời anh Sáu Kiệt”.
Ông Kiệt khi đó đang ở Củ Chi và theo ông Lê Đức Anh, từ trước đó đã lãnh đạo Khu ủy xây dựng các cơ sở trong nội thành, xây dựng lực lượng biệt động và một phần lực lượng đặc công cho không chỉ Sài Gòn mà cho cả Miền. Những trận đánh trong lòng Sài Gòn từ nửa cuối thập niên 60 đã thực sự tạo ra một địa vị mới cho Quân Giải phóng miền Nam và chính những lực lượng này đã có những mũi đột phá chấn động Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân 1968.
|
Từ trái sang phải: Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Xô, Phạm Thái Bường (Ba Bường), và Võ Văn Kiệt thời kỳ chiến tranh giải phóng miền Nam Việt Nam. Ảnh VNN |
Nhưng, đóng góp có ý nghĩa nhất làm thay đổi cục diện chiến tranh của ông Võ Văn Kiệt là chủ trương “không mơ hồ ảo tưởng” trước Hiệp định Paris. Chủ trương này được đưa ra sau hai năm ông trở lại miền Tây làm Bí thư Khu ủy Khu IX.
Ngày 2/2/1973, tức là gần một tuần sau khi ký Hiệp định Paris, ông Kiệt triệu tập Hội nghị Thường vụ Khu ủy, xác định quyết tâm “giữ vững thành quả cách mạng”. Ngày 3/3/1973, Quân đội Sài Gòn dùng 30 tiểu đoàn đánh vào Chương Thiện, dự kiến trong 7 ngày sẽ chiếm xong các mục tiêu, bịt cửa ngõ U Minh. Nhưng, các mũi tiến công đều bị chặn đứng, Khu IX, ngay sau đó tổ chức tấn công trên toàn địa bàn Quân khu.
Trong cuốn Kết thúc chiến tranh 30 năm, do nhà xuất bản Văn nghệ TP.HCM xuất bản năm 1982, Tướng Trần Văn Trà viết: “Khu IX từ chỗ xem như không có Hiệp định, không có gì mới, cứ đánh như cũ. Đó là một nhận thức không đúng về Hiệp định Paris, về giai đoạn chiến lược mới. Nhưng, nó lại đúng ở chỗ đánh giá được sự ngoan cố, lật lọng của địch” (trang 88).
Tướng Trà viết tiếp: “Éo le thay, hành động cụ thể ấy lại ngược hẳn với một loạt chủ trương lúc ấy” (trang 88). Chủ trương “Thi hành Hiệp định Paris” được đại diện của Ban Bí thư Trung ương Đảng trực tiếp vào Trung ương Cục phổ biến lúc ấy là: “Hòa hợp dân tộc và thi đua hòa bình”, coi “đấu tranh chính trị là chủ yếu”, đồng thời tranh thủ thời cơ “gò cương vỗ béo” lực lượng vũ trang.
“Lĩnh hội tinh thần” này, Hội nghị Binh vận Miền tháng 4/1973 triển khai “năm cấm chỉ”: Cấm tấn công địch; cấm đánh địch đi càn quét; cấm bắn pháo vào đồn địch; cấm bao vây đồn bót; cấm xây dựng ấp xã chiến đấu. Ông Võ Văn Kiệt và Thường vụ Khu ủy ra lệnh Binh vận Khu không phổ biến chủ trương này của Binh vận Miền.
Nhiều nơi cho rằng “Khu ủy Tây Nam Bộ xé Hiệp định Paris”. Trung ương Cục điện yêu cầu “Khu IX phải thấy tình hình mới”. Bộ Tư lệnh Miền phê bình, thông báo toàn Miền và ra lệnh cho Đại tá Lê Đức Anh, Tư Lệnh Khu IX, rút hai trung đoàn chủ lực về phía sau rèn luyện nếu không sẽ “đưa đại tá ra Tòa án binh”.
Đại tá Lê Đức Anh trả lời Bộ Tư lệnh: “Cho phép Quân khu IX thi hành chủ trương của Thường vụ Khu ủy”. Bí thư Khu ủy Võ Văn Kiệt tuyên bố: “Mệnh lệnh tối cao lúc này là phải giữ đất, giữ dân”. Ông điện cho Trung ương Cục và Bộ Chính trị: “Nếu không chống địch lấn chiếm, để mất đất, mất dân lúc này là mất tất cả” (1).
Trong cuốn Hồi ký đã dẫn, Thượng tướng Trần Văn Trà viết: “Ở các Chiến trường khác ta bị lấn mất đất, mất dân rất nhiều, riêng ở Quân khu IX, nơi lúc bấy giờ, địch tập trung quân đông nhất, ta vẫn giữ được các vùng của ta”. Từ thực tế Khu IX, Bộ Chính trị đã cho triệu tập đại diện các Khu, đại diện Trung ương Cục, đại diện Bộ Tư lệnh Miền ra Bắc.
Trong thời gian ấy, khi ông Võ Văn Kiệt đang báo cáo “kinh nghiệm Khu IX” thì ở chiến trường, quân dân Khu IX đã chặn thành công cuộc tấn công thứ II vào Chương Thiện của 75 tiểu đoàn Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau giai đoạn này, Đại tá Lê Đức Anh được thăng vượt cấp quân hàm lên Trung tướng. Chiến trường Khu IX trở thành một thực tế có sức thuyết phục cao tại Hội nghị Trung ương đang nhóm họp ở Hà Nội và Đồ Sơn.
Sau nhiều tuần tranh luận, Hội nghị Trung ương 21 đã thông qua Nghị quyết khẳng định: “Tiếp tục con đường bạo lực cách mạng ở miền Nam”. Đánh giá vai trò của Khu IX sau Hiệp định Paris, Tướng Trà viết: “Nếu như từ năm 1973, chúng ta tin rằng bằng cách này hay cách khác, Hiệp định Paris sẽ được thi hành giống như chúng ta đã tin hai năm sẽ có Tổng tuyển cử hồi Hiệp định Geneve… thì tình hình đã không như bây giờ” (sách đã dẫn, trang 125).
Chiếc xe tăng “đỡ đạn” cho những người “xé rào”
Sau ngày 30/4/1975, từ một nhà lãnh đạo kháng chiến xuất sắc, ông Võ Văn Kiệt, lúc bấy giờ 53 tuổi, trở thành người đứng đầu chính quyền dân sự của Thành phố Sài Gòn. Ông sẽ phải bắt đầu ở đây nhiều công việc mà ông chưa từng được biết đến. Ông đã từng là một người hăng hái áp dụng những chuẩn mực của thời “Cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội”. Để rồi, bằng sự mẫn cảm chính trị của một Võ Văn Kiệt luôn có mặt ở nơi cuộc sống đang diễn ra, ông nhận ra hậu quả của những chính sách thực hiện sau những ngày “say sưa chiến thắng” ấy.
Sau khi Nhà nước “đánh tư sản mại bản” (tháng 9/1975) và tiến hành “cải tạo công thương nghiệp” (tháng 3/1978), sản xuất đi xuống, thương mại đình đốn. Trong khi đó, “hợp tác hóa nông nghiệp” một cách ồ ạt cũng khiến cho Nam Bộ, từ một vựa lúa lớn ở châu Á, trở thành một vùng khan hiếm lương thực. Có thời gian, những người dân mua lương thực theo sổ, đặc biệt là người dân sống trong các đô thị miền Nam đã phải ăn bo bo thay gạo. Ở TP.HCM nhiều nhà máy sau khi được nhà nước “thống nhất quản lý”, máy móc bị bỏ bê, hư hỏng, nguyên liệu không có để sản xuất, công nhân phải đến các vùng kinh tế mới trồng trọt để có thêm lương thực.
Trong tình cảnh ấy, một số giám đốc nhà máy, xí nghiệp, thay vì chờ nguyên liệu rót xuống theo kế hoạch, chờ nhà nước thu mua sản phẩm và thanh toán tiền lương cho công nhân… đã chủ động khai thác các nguồn nguyên liệu, tự cân đối nguồn hàng để khôi phục sản xuất. Hàng hóa làm ra nhiều hơn, đời sống công nhân được cải thiện. Nhưng, làm như vậy là đụng đến cơ chế, là phá vỡ các “nguyên tắc kinh tế xã hội chủ nghĩa”, đặc biệt là cơ chế “kế hoạch hóa tập trung”. Số phận các giám đốc năng động bị đe dọa cả về chính trị và pháp luật.
Ông Võ Văn Kiệt đã đến với họ, lắng nghe, ủng hộ và cùng các giám đốc, các ngành du lịch, lương thực, ngân hàng… tìm cách tháo gỡ. Đặc biệt, ông Võ Văn Kiệt đã giao cho bà Nguyễn Thị Ráo (Ba Thi) lập Công ty Lương Thực, thay vì đợi nhà nước rót gạo xuống cấp cho người dân, Công ty của bà trực tiếp về các tỉnh mua lúa sát giá thị trường mang về Thành phố xay xát và bán lại cho người dân theo giá “đảm bảo kinh doanh”, không lấy lãi. Cách làm này của bà Ba Thi là “xé rào” cả về giá và cơ chế.
Đầu thập niên 80, nhằm để thực tiễn tác động đến các cấp ban hành chính sách, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt đã cùng với Liên hiệp Dệt tổ chức một Hội nghị tại Phước Long, để Giám đốc Dệt Thành Công báo cáo những kinh nghiệm “tháo gỡ”. Những kết quả cụ thể của Thành Công đã có tác động rất lớn tới các vị lãnh đạo cấp cao có mặt như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Phó Thủ tướng Phạm Hùng, Phó Thủ tướng Đỗ Mười…
Tất nhiên, cũng có những người nhận thấy và ủng hộ, nhưng cũng có những người phản đối. Đầu năm 1982, sau khi chính thức vào Bộ Chính trị tại Đại hội V, ông Võ Văn Kiệt được điều ra Bắc, giữ chức Phó Chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng. Theo ông Đặng Xuân Kỳ, con trai của ông Trường Chinh, lúc ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và từ giữa năm 1986 làm Tổng Bí thư thay ông Lê Duẩn qua đời: “Kể từ khi ra Bắc, anh Sáu Dân dành rất nhiều thời gian nói chuyện với cha tôi và ông luôn đề nghị cha tôi đi nhiều hơn xuống cơ sở”.
Ở thời điểm ấy, “Trung ương” vẫn cử nhiều đoàn thanh tra vào TP.HCM để “lập lại trật tự”. Tuy nhiên, chính những cán bộ Thanh tra Chính phủ đã không thể làm ngơ trước thực tiễn, thấy rõ chính cái “sai” so với những chuẩn mực mà họ định bảo vệ đã cứu vớt xí nghiệp, công nhân và vực dậy nền kinh tế.
Cùng thời gian ấy, ông Nguyễn Văn Linh trở lại thành phố thay thế ông Võ Văn Kiệt làm Bí thư Thành ủy. Ông Nguyễn Văn Linh không những tiếp tục bảo vệ những vị giám đốc xé rào từ cuối thập niên 70 này, mà khi các nhà lãnh đạo Trung ương nổi tiếng “cứng rắn” đến TP.HCM, ông đã tạo điều kiện tốt để họ lắng nghe cơ sở.
Theo ông Mai Chí Thọ, khi ấy là Chủ tịch Ủy Ban Nhân dân TP.HCM, thì thực tế mà ông Trường Chinh nghe và thấy đã khiến ông phải thốt lên: “Trước đây, tôi đã nghe nhiều báo cáo sai lầm”. Một trong những sự kiện có ý nghĩa tác động lớn đến quyết định của ông Trường Chinh là Hội Nghị Đà Lạt, tháng 7/1983. Ông Nguyễn Văn Linh đã đưa đến Hội nghị này những vị “Giám đốc xé rào” và phát biểu của Giám đốc Thuốc lá Vĩnh Hội, Dệt Thành Công, Công ty Lương thực TP… đã khiến cho ông Trường Chinh về sau nhìn nhận: “Kể từ hôm đó, tôi buộc phải suy nghĩ lại một loạt vấn đề”.
Cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ trước, cùng với chủ trương “xé rào” của ông Võ Văn Kiệt tại TP.HCM, nhiều địa phương cũng có một số hành động trái với chính sách đương thời trên nhiều lĩnh vực: Hải Phòng và Vĩnh Phú cho “khoán chui”; An Giang, cho xóa bỏ các trạm kiểm soát hàng hóa, tổ chức bán vật tư và thu mua lúa theo giá thị trường cho nông dân; Long An cho bán lương thực thực phẩm theo giá thị trường đồng thời “bù giá vào lương” cho cán bộ công nhân viên chức…
Theo giáo sư Đặng Phong, tác giả bộ sách Tư duy kinh Tế Việt Nam: “Ở miền Nam khi đó, Võ Văn Kiệt có vai trò như một chiếc xe tăng “đỡ đạn” cho những người “xé rào”. Ông tiếp xúc, tìm hiểu kinh nghiệm từ các chuyên gia về kinh tế thị trường ở lại sau ngày 30/4, nhưng, có lẽ nhờ sự lão luyện của một nhà lãnh đạo chiến tranh nhân dân mà Võ Văn Kiệt không dựa vào lý thuyết để giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra.
Ông lắng nghe dân, tìm hiểu thực tiễn từ cơ sở, nắm bắt kịp thời những kinh nghiệm tốt trong cuộc sống để tìm ra giải pháp và thuyết phục người khác bằng kết quả trên thực tế. Không có ông thì không có Dệt Thành Công, Việt Thắng, Bột giặt Viso, Thuốc lá Sài Gòn, Công ty Lương thực của bà Ba Thi… Ông Kiệt còn là chỗ dựa cho những đổi mới của ông Nguyễn Văn Hơn ở An Giang, ông Chín Cần (Nguyễn Văn Chính) ở Long An…”
Giáo sư Đặng Phong cho rằng, ở Việt Nam, cải cách không bắt đầu từ tư tưởng của một nhà lãnh đạo nào đó mà bắt đầu từ cuộc sống. Năm 1978, khi xuống tận xí nghiệp để lãnh đạo “xé rào”, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là bản thân ông cũng chưa nhận thấy nguồn gốc của những sai lầm, chưa ý thức đầy đủ về kinh tế thị trường, mà nhờ ở nguyên tắc “không thể coi một việc làm là sai khi nó mang lại nhiều lợi ích hơn cho công nhân, cho nhà máy và cho đất nước”.
“Xé rào” mà ông khởi xướng và được lặng lẽ hưởng ứng ở nhiều nơi, thoạt đầu, theo cách nói của ông Trần Phương, Phó Thủ tướng, là “xuyên một lỗ nhỏ qua bức tường”, để rồi, “khi đã được phép xuyên một lỗ nhỏ cho dễ thở, thì người ta mở nó thành một cửa sổ. Đến khi được chấp nhận mở cửa sổ thì người ta phá nó ra thành một cửa ra vào”. Chính “cuộc sống” được mở ra ấy là cơ sở để ông Trường Chinh và những nhà nghiên cứu có tư duy đổi mới mà ông tập hợp được thời bấy giờ, đúc rút và chuẩn bị các quan điểm cơ bản cho đường lối đổi mới được bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng, tháng 12/1986.
“Nụ cười Võ Văn Kiệt”
Năm 1991, ông Võ Văn Kiệt được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Ông Lê Xuân Trinh, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (tên gọi từ năm 1992), nhớ lại: “Khi đó, phần lớn quan chức Chính phủ vẫn còn đến cơ quan bằng… dép lê. Một trong những chỉ thị đầu tiên của ông Võ Văn Kiệt trên cương vị người đứng đầu Chính phủ là yêu cầu công chức đến nhiệm sở phải đi giày hoặc dép có cài quai hậu”. Đó không chỉ là một thay đổi đơn thuần về hình thức.
Chính phủ trong nhiệm kỳ của ông Võ Văn Kiệt, ngay từ những ngày đầu đã hoàn chỉnh soạn thảo trình Quốc hội thông qua và ban hành bản Hiến pháp đổi mới, Hiến pháp 1992; trình Luật Đất đai 1993, theo đó trao “5 quyền” cho “người sử dụng đất”. Đặc biệt, nhiều hành vi mà luật pháp trước đó coi là “tội hình sự” kể từ những năm đầu thập niên 90 được coi là những “giao dịch dân sự”. Nền tảng pháp lý cho một nền kinh tế thị trường vận hành từng bước được hình thành, quyền của người dân về tài sản được thể chế hóa trong Bộ Luật Dân sự năm 1995 và trong nhiều đạo luật khác.
Cơ sở để Chính phủ của Thủ tướng Võ Văn Kiệt tiến hành mạnh mẽ việc xây dựng nền tảng pháp lý cho một nhà nước pháp quyền là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII. Tuy nhiên, ông Võ Văn Kiệt đã không lãnh đạo Chính phủ triển khai những chương trình quan trọng ấy như một người thừa hành mà bằng tất cả nhiệt huyết của một người nhận ra vai trò của kinh tế thị trường đối với việc phát triển của quốc gia dân tộc và vai trò của luật pháp như là một điều kiện tiên quyết cho nền kinh tế vận hành.
Những năm làm Bí thư Thành ủy TP.HCM, ông Võ Văn Kiệt đã chứng kiến nhiều trí thức ở Sài Gòn đã phải bỏ nước ra đi dù ông biết đó là những người yêu nước. Phải đặt những nỗ lực của Chính phủ trong bối cảnh vừa làm vừa phải tìm kiếm sự đồng thuận trước sự co kéo giữa “nguy cơ chệch hướng” và “nguy cơ tụt hậu” mới thấy, có rất nhiều lý do để vị Thủ tướng giữ chức vụ lâu nhất Việt Nam, ông Phạm Văn Đồng, có lời nhận xét vào cuối thế kỷ 20: “Võ Văn Kiệt là Thủ tướng làm được nhiều việc nhất”. (2)
Không phải đến khi Chính thức giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Võ Văn Kiệt mới quan tâm đến vấn đề trang phục của những người phục vụ trong bộ máy công quyền. Năm 1990, khi đến Davos tham gia Diễn đàn Kinh tế thế giới và cũng là lần đầu tiên công du đến một nước phương Tây, ông Võ Văn Kiệt đã tham vấn cơ quan ngoại giao và người thân, lựa chọn cẩn thận từ chiếc cà-vạt cho tới bộ âu phục.
Việc làm này của ông đã nhận được không ít “xì xào”, nhưng ông nhận thức đây không phải là vấn đề cá nhân mà là trách nhiệm của ông phải giới thiệu với thế giới một hình ảnh Việt Nam mới, một Việt Nam sau Đại hội VII, “muốn làm bạn với tất cả”. Khi ông Kiệt chọn những bộ trang phục lịch lãm, cùng với một nụ cười hết sức thân thiện mà về sau được gọi là “nụ cười Võ Văn Kiệt”, cũng là khi thế giới nhận thấy Việt Nam đã sẵn sàng thực hiện những tuyên bố đó của mình. Ông Nguyễn Trung, một nhà ngoại giao kỳ cựu, hồi giữa thập niên 90 là Trợ lý Thủ tướng, nói: “Không có ai nhiều bạn thủ tướng như ông Kiệt”.
|
“Nụ cười Võ Văn Kiệt” |
Một trong những nhà lãnh đạo cư xử với ông Võ Văn Kiệt như bạn là Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu. Họ gặp nhau lần đầu ở Davos và khi đó trên diễn đàn, ông Lý chỉ trích gay gắt việc Việt Nam từng đóng quân ở Campuchia. Thay vì ác cảm với ông Lý, tại Davos, ông Kiệt đã chủ động bắt chuyện và, ngay từ cách cư xử ấy, ông Kiệt đã chiếm được cảm tình của ông Lý Quang Diệu.
Trong lần đến Malaysia, Thủ tướng Mahathia cũng đã “khẩn thiết” kêu gọi ông Võ Văn Kiệt xử lý vấn đề thuyền nhân Việt Nam, khi đó đang trở thành gánh nặng cho Malaysia, ông Võ Văn Kiệt đã đáp lại bằng cách ôn tồn nhìn nhận: “Điều đó cũng là nỗi đau mà chúng tôi đang tìm cách khắc phục”.
Thủ tướng Thái Lan khi ấy là Chatichai, ngay trong lần đầu gặp ông Võ Văn Kiệt ở Hà Nội, biết ông Kiệt chơi tennis đã cho tùy tùng bay về Bangkok mang vợt sang để cuối ngày sau giờ làm việc, ông Chatichai mời ông Kiệt ra sân “thi đấu”. Thái độ thân thiện một cách chân thành của ông Võ Văn Kiệt đã tìm được sự chia sẻ của những người đồng nhiệm ở các nước trong ASEAN, một cánh cửa ngoại giao mà Việt Nam đang nhắm đến. Năm 1992, Việt Nam trở thành quan sát viên ở ASEAN và được hứa là 5 năm sau sẽ kết nạp Việt Nam. Nhưng, tới năm 1994, họ đã mở lời, nếu Việt Nam sẵn sàng thì năm 1995 sẽ kết nạp.
Năm 1995: Năm Võ Văn Kiệt
Cuối thập niên 80, đầu 90, nhất là sau khi Liên Xô và khối Đông Âu sụp đổ, “tình hình xuống tận đáy”, Việt Nam không có lựa chọn nào khác là phải quan hệ đa phương. Nhưng, cho dù, “làm bạn với tất cả” đã trở thành Nghị quyết của Đảng, việc thực hiện cũng không đơn giản, dễ dàng.
Bộ trưởng Ngoại giao lúc ấy, ông Nguyễn Mạnh Cầm kể: “Đúng vào ngày Bộ trưởng các nước ASEAN họp để nghe Việt Nam trả lời về việc gia nhập ASEAN, buổi sáng trước khi tôi đi, Thường vụ Bộ Chính trị nhóm họp lần cuối, vẫn có một thành viên không đồng ý, kiên quyết bảo lưu ý kiến. Đến giờ tôi phải ra máy bay, anh Đỗ Mười dặn, anh cứ sang nhưng chờ điện thoại của Bộ Chính trị”.
Tổng Bí thư Đỗ Mười ngay sau đó cử Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Khoan bay vào TP.HCM gặp ông Võ Văn Kiệt, thành viên không tham dự phiên họp này của Thường vụ. Khi nghe ông Vũ Khoan báo cáo, ông Kiệt trả lời tức thì: “Điện ngay cho anh Cầm trả lời ASEAN là Việt Nam đồng ý”. Ông Võ Văn Kiệt giải thích: “Nếu khi ấy Việt Nam do dự thì sẽ rất bất lợi, họ sẽ nghĩ Việt Nam chỉ thăm dò chứ không thành thật và như vậy thì cơ hội bỏ mất không biết đến bao giờ”.
Ông Nguyễn Mạnh Cầm nhớ lại, thời kỳ hoạt động đối ngoại dưới quyền Thủ tướng Võ Văn Kiệt là “một giai đoạn cực kỳ sôi nổi”. Ông nói: “Anh Kiệt luôn là người mở nút bên trên, nhất là những vấn đề gay cấn”.
Cũng trong những năm 1993, 1994 khi đàm phán đã gần dẫn đến ký kết Hiệp định với EU thì gặp phải một điều kiện, đó là điều khoản về nhân quyền mà “ở nhà” bàn rất nhiều. Nhiều ý kiến cho rằng EU đưa vấn đề nhân quyền ra như một điều kiện chính trị là không thể chấp nhận. Trước khi bay đi Châu Âu, ông Võ Văn Kiệt bàn với Tổng Bí thư Đỗ Mười: “Tôi đề nghị anh đồng ý cho tôi về mặt nguyên tắc: nếu những hiệp định mà EU ký với các nước khác không có vấn đề nhân quyền mà chỉ áp dụng riêng cho Việt Nam thì ta sẽ thuyết phục họ rút lại điều khoản này; nếu đấy là thông lệ của EU thì anh cho tôi quyết định vì mình cũng không nên đặt mình như là một ngoại lệ”. Tổng Bí thư Đỗ Mười nhất trí.
Một số nhà ngoại giao Việt Nam đề nghị coi năm 1995 là “Năm Võ Văn Kiệt”, năm ấy, Việt Nam gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Đó là một mốc cực kỳ quan trọng, Việt Nam lần đầu tiên có quan hệ với tất cả các nước đang chi phối thế giới này”. Cũng trong năm 1995, ông Võ Văn Kiệt giao cho Bộ Thương mại xúc tiến đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ.
Trong mỗi quyết định mà ông Võ Văn Kiệt đưa ra ở từng thời điểm khác nhau đều có những dấu ấn của thời điểm ấy và dấu ấn của chính con người ông. Nó phản ánh tiến trình phát triển nhận thức của cá nhân ông đồng thời cũng thể hiện những ràng buộc của lịch sử. Càng về sau, những quyết định của ông Võ Văn Kiệt càng dựa trên những nền tảng tư duy, lý luận mà ông thực sự tích lũy được trong quá trình lắng nghe, học hỏi và đối chiếu từ những cuộc thảo luận nghiêm túc với lực lượng trí thức mà ông tiếp xúc thường xuyên ở cả hai miền và từ nhiều nguồn đào tạo.
Cùng với sự trải nghiệm qua những thành bại của đất nước trong suốt hơn nửa thế kỷ mà ông tham gia, ông nhận ra lý do thất bại, lý do thành công, nhận ra đâu là con đường để huy động được sức mạnh từ mọi nguồn của dân tộc. Càng nhận ra, càng sốt ruột, nhưng, âu cũng là quy luật, có rất nhiều việc ông đã không đủ thời gian để nhìn thấy chúng trở thành hiện thực, có nhiều việc khác ông thậm chí đã không có đủ thời gian để kịp nói ra.
Trong bức điện chia buồn được gửi đi ngay trong sáng ngày ông Võ Văn Kiệt từ trần, 11/6/2008, ông Lý Quang Diệu viết: “Ông Kiệt sẽ được tất cả mọi người nhớ đến”. Ông Võ Văn Kiệt thường nói: “Có những người có chức quyền mà không có sự nghiệp, có những người mất hết chức quyền mà sự nghiệp vẫn còn”.
Trong cuộc đời làm cách mạng của mình, ông Võ Văn Kiệt đã không ngần ngại đưa ra các quyết định, trong đó có những quyết định đe dọa trực tiếp đến cái ghế của chính ông, có lẽ đó là điều, như Thủ tướng Lý Quang Diệu nói, làm cho ông Võ Văn Kiệt càng được nhiều người nhớ đến.
Chú thích:
(1) Theo Ấn tượng Võ Văn Kiệt, NXB Trẻ; Đại tướng Lê Đức Anh, NXB QĐND; Kết thúc chiến tranh 30 năm, NXB Văn Nghệ
(2) Theo ông Việt Phương, thư ký của ông Phạm Văn Đồng